PDA

View Full Version : Dòng Họ NGÔ ĐÌNH, Ước Mơ Chưa Đạt



PN99
03-12-2009, 18:40
Dòng Họ NGÔ ĐÌNH, Ước Mơ Chưa Đạt

Nguyễn Văn Minh


Lời nói đầu



Sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 , Miền Nam Việt Nam rơi vào tình trạng hỗn loạn gần như vô luật pháp. Tình trạng phân hóa chia rẽ hiển hiện trong mọi tổ chức, mọi thành phần xã hội, nhất là tại miền Trung và đặc biệt giữa hai khối tôn giáo lớn Công Giáo và Phật Giáo.
Trong khi đó, nhiều cơ quan ngôn luận đua nhau phổ biến những tài liệu ngụy tạo kích động lòng hận thù, kỳ thị tôn giáo qua những luận điệu cố tình đồng hóa giáo hội Công Giáo Việt Nam với chế độ Đệ I Cộng Hòa, với đảng Cần Lao. Riêng ông Ngô Đình Cẩn thì được mô tả như “một lãnh chúa, ngu dốt, gian ác, tham tàn” v.v…
Tôi có cơ hội tiếp xúc với ông Cẩn ít lâu trước khi ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh. Làm việc bên cạnh ông Cẩn từ ngày 1 tháng 1 năm 1956 đến ngày 4 tháng 11 năm 1963 .
Tôi được biết về con người, về nhiều công việc ích quốc lợi dân ông Ngô Đình Cẩn đã làm, về truyền thống và nề nếp của gia đình ông; về tinh thần phục vụ và cống hiến cho đất nước và dân tộc của anh em ông.
Tôi cũng được chứng kiến, nghe biết về những biến chuyển, biến động tại miền Trung trong suốt thời Đệ I Cộng Hòa và cách đối xử, ứng phó của chính quyền.
Nhờ đó, tôi thấy được nhiều câu chuyện, nhiều bài viết, được phổ biến ở trong nước cũng như ngoài nước vào thời kỳ ấy không đúng Sự Thật, thậm chí gian xảo.
Đáng tiếc là, từ sau ngày Việt Nam Cộng Hòa bị khối Cộng sản quốc tế cưỡng chiếm, những Sự Thật đã bị xuyên tạc vẫn được một số tác giả người Việt Nam cũng như ngoại quốc, vì mục đích riêng tư, xử dụng trong tác phẩm của họ như những Thực Chứng, bất kể đến hậu quả tai hại đến tinh thần Đoàn Kết Quốc Gia , một yếu tố quyết định Sự Sống Còn của dân tộc.
Hành động xuyên tạc Sự Thật có chủ ý như vậy đối với lịch sử, và các thế hệ con cháu sau này là một Trọng Tội, và đối với những người không còn khả năng tự vệ là việc làm không lương thiện, ác độc và bất công.
Vì thế, theo lương tâm, tôi tự thấy có bổn phận phải đóng góp phần mình, mặc dầu nhỏ nhoi , vào công cuộc giải trừ những lừa dối đối với lịch sử, với các thế hệ mai sau, hóa giải những độc tố vẫn còn tiếp tục gậm nhấm, tàn phá tinh thần Đoàn Kết Quốc Gia của dân tộc.
Đó là mục đích của tập Hồi Ức này.
Vài điều cần giải thích:
- Sau môt vài sự kiện được kể lại, chúng tôi có trích dẫn một số tài liệu để làm sáng tỏ cho sự kiện được tường thuật, nhằm giúp cho quí độc giả nhất là quý vị cao niên, không có điều kiện khi muốn sưu tầm đối chiếu. Hoặc quý vị nào muốn được biết về các sự kiện ấy một cách đầy đủ hơn, có thể dễ dàng tìm đọc số tài liệu được trích dẫn.
- Phần trích dẫn, chúng tôi áp dụng phương pháp không đặt chú thích ở cuối trang hoặc cuối chương. Chúng tôi ghi nguồn gốc, xuất xứ tài liệu ngay sau đoạn văn được trích dẫn, để quý độc giả dễ dàng theo dõi và luồng suy nghĩ không bị ngắt đoạn lâu khi phải lật tìm những chú thích.

Trân trọng.


California Mùa Thu 2003
NGUYỄN VĂN MINH

PN99
03-12-2009, 18:44
Dòng Họ NGÔ ĐÌNH, Ước Mơ Chưa Đạt


Nguyễn Văn Minh


Chương 1.1


ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN


MrNgoDinhCan

"...Tôi nhất định ở lại làm việc. Sống thì sống , chết thì chết. Không đi mô hết".


DUYÊN TRI NGỘ


Hạ bán năm 1950, một nguồn tin được lan truyền trong giới thanh niên Hà Nội: Tại miền Trung, Thủ Hiến Phan Văn Giáo đã tranh đấu dành được nhiều quyền độc lập rộng rãi. Trong cuộc sống thường ngày, người Pháp chỉ được hoạt động trong khu vực dành cho họ. Lính Tây muốn qua bên thành nhà Vua phải có giấy phép v.v…Hơn một trăm thanh niên, trong đó có tôi, theo sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Tố, Giám Đốc võ đường Vovi-nam ở đường Hàng Bông, tình nguyện vào học trường võ bị của lực lượng võ trang do Thủ Hiến Giáo thành lập: Lực Lượng Việt Binh Đoàn tại Huế. Cuối năm 1951 ra trường, tất cả khóa học của chúng tôi được chuyển qua Quân Đội Quốc Gia (QĐQG) mới thành lập, và được phân phối cho cả ba quân khu (QK - miền Nam, QKII -miền Trung, QKIII - miền Bắc). Tôi được phân phối về QKII và thuyên chuyển về Tiểu đoàn 7, một trong hai Tiểu đoàn QĐQG đầu tiên tại miền Trung thời bấy giờ.

Sau mấy tháng đi hành quân lưu động, Tiểu đoàn 7 được điều ra đóng bảo vệ an ninh lãnh thổ hai quận Gio Linh và Vĩnh Linh, thuộc vùng cực Bắc tỉnh Quảng Trị. Trung Đội của tôi, Trung Đội 3 thuộc Đại Đội 3, đóng tại đồn Cửa Tùng (cửa sông Bến Hải) thuộc quận Vĩnh Linh. Thời buổi chiến chinh lính tránh trấn đồn mà được đóng ở chỗ này kể là thuộc loại số đỏ. Đồn đóng ngay tại khu nhà Thừa Lương (nhà nghỉ mát) của cựu Hoàng Bảo Đại, phía Đông là biển, phía Nam là sông, hai phía Tây và Bắc, năm đồn Hương bảo vệ quanh, nên vấn đề an ninh của đồn tương đối an toàn.

Tháng 5 năm 1953, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy Đại Đội thay thế Trung Úy Lê Hoàng Thao, một sĩ quan người Miền Nam được thuyên chuyển về nguyên quán. Bộ Chỉ Huy Đại Đội đóng trên đồi Tân Trại, các bờ biển Cửa Tùng chừng 4 cây số, cách quốc lộ số 1, đoạn Quảng Trị Đồng Hới cũng khoảng 4 cây số.

Vùng trách nhiệm của Đại Đội trải dọc hai bên bờ sông Bến Hải, từ bờ biển Cửa Tùng đến vùng thượng nguồn Mỹ Tá dưới chân dãy Trường Sơn. Quân số của Đại Đội trấn đóng bốn đồn: Cửa Tùng, Tân Trại, Xuân Hòa và Mỹ Tá. Mười một đồn Hương Vệ với quân số đồn ít nhất trên 20, đồn nhiều nhất trên 40, và hai pháo đài Phụ lực quân (partisan), mỗi pháo đài 6 người.

Một điều lạ đối với tôi, không hiểu tại sao lực lượng võ trang Việt Cộng trong khu vực này cứ theo đuổi đánh tôi hoài?

Khi tôi coi đồn Cửa Tùng, đã có lần họ tập trung lực lượng đông gấp 10 lần hơn, quyết san bằng đồn tôi. Nhưng nhờ được dân chúng mật báo cho biết trước, nên kế hoạch hành quân của họ đã bị hóa giải một cách nhẹ nhàng bằng mấy lọat trọng pháo của Tiểu Đoàn yểm trợ, bắn trúng vào điểm tập trung quân cuả họ.

Thời gian tôi chỉ huy Đại Đội, cuối tháng 12-1953, họ tung một cuộc tấn công thật ác liệt vào đồn Hương Vệ An Do Tây và đồn Hương Vệ Lưu động đóng sát cạnh, giữa đoạn đường từ đồi Tân Trại đến Cửa Tùng. Có lúc họ đã chiếm được một trong ba pháo đài của đồn lưu động.

Đến cuối tháng 1-1954, họ lại thực hiện một cuộc bao vây đồn Hương vệ Phan Xá, phía Tây cầu Bến Hải, buộc tôi phải đương đầu trong một tư thế hết sức nguy hiểm. Vì muốn giải vây cho đồn này tôi phải hành quân vượt sông.

Nhưng nhờ tinh thần quyết chiến của anh em binh sĩ trong Đại Đội và lòng can đảm phi thường của anh em Hương Vệ, các mưu tính của họ đều được giải tỏa với phần thua thiệt về phía họ.

Cuối tháng 3 năm 1954 tôi bị đau, được đưa vào điều trị ở Quân Y Viện Huế. Sau khi xuất viện, thời gian được nghỉ dưỡng bệnh, vợ chồng tôi đến ngụ ở phía sau nhà thờ Phú Cam, trong một căn phòng nhỏ, mướn của Đại Úy Nguyễn Văn Tú có biệt danh là Tú Kèn, vì ông này chỉ huy Ban Quân Nhạc Quân Khu II.

Chúng tôi mới ở đây được mươi ngày thì một buổi chiều, Đức Giám Mục Giáo phận Huế, tên Việt của Ngài là Thi, tên Pháp là Urrutia , đến thăm. Sau mấy phút hỏi thăm về tình trạng sức khoẻ của tôi , Đức Cha ban phép lành cho vợ tôi khi ấy đang mang thai cháu đầu lòng, rồi ngài kéo tay tôi nói: “ Đi với Cha”.

Đức Cha Thi biết tôi vì dịp ngài ra thăm mấy họ đạo vùng Cửa Tùng, đã đến nghỉ đêm ở đồn tôi mấy tối.

Từ nhà Đại Úy Tú đến tòa Giám Mục khoảng hơn 500 thước, hai cha con đi bộ, trên đường đi tôi hỏi ngài:

- Sao Đức Cha biết mà đến thăm con ở đây?

- Không những Cha biết con ở đây mà còn biết con mới ở bệnh viện ra nữa. Rồi Ngài hỏi tôi về tình hình vùngCửa Tùng, đặc biệt là từ khi xẩy ra hai trận đánh tại đồn An Do Tây và Phan Xá.

Đến Tòa Giám Mục, Đức Cha dẫn tôi qua thăm cố Cả, tên Pháp là Cadière, một linh mục thuộc dòng Thừa sai Paris và là một học giả, giới trí thức thời ấy không mấy ai không biết tiếng. Cố Cả bị Việt Minh bắt đi từ khi họ cướp chính quyền, tháng 8 năm 1945, mới được trả tự do vài tháng trươc đó.

Tôi từ biệt Đức Cha và cố Cả sau khoảng một giờ trình bày với các ngài về tình hình vùng Cửa Tùng. Đặc biệt về sinh hoạt của giáo xứ Di Loan, giáo xứ cố Cả coi sóc trước khi bị bắt , sinh quán cửa Đức Giám Mục Lê Hữu Từ.

Buổi sáng một ngày giữa tháng 4 – 1954, cô Công Tằng Tôn Nữ Tiếu Diện, em Linh Mục Bửu Đồng, hiện ở Đức, đến mời tôi qua gặp ngài.

Tôi được quen biết cha Bửu Đồng từ khi về coi Cửa Tùng và sau này trở nên rất thân thiết với ngài và gia đình. Cha Bửu Đồng coi giáo xứ Phan Xá, nơi có đồn Hương Vệ bị bao vây tôi mới kể ở trên. Ông thân sinh của ngài là cụ Ưng Trạo, thường được gọi là cụ Hường Trạo theo thẩm vị Hồng Lô Tự Khanh của Nam Triều. Cụ là cha đỡ đầu của ông ngô Đình Cẩn.

Đến gặp cha Đồng, ngài nói với tôi:

- Bữa qua tôi ghé vô thăm cậu Cẩn, ông hỏi có biết anh Thiếu Úy mô mướn nhà trên Đại Úy Tú mà Đức Cha mới tới thăm mấy bữa ni không? Tôi cho ông biết là anh, và cũng đã có một đôi lần tôi nói với ông về anh. Ông nhủ tôi bữa mô đưa anh xuống gặp ông, tôi hứa bữa ni. Chừ anh qua gặp ông với tôi được không?

Vì từ khi còn ngồi ghế ở nhà trường tôi đã được nghe đến danh tiếng gia đình họ Ngô, nên không một chút do dự, tôi thưa lại ngay với cha Bửu Đồng:

- Dạ thưa Cha được chứ, con có mắc gì đâu.

Tôi đi theo cha Bửu Đồng qua ngôi nhà xế trước mặt nhà ngài. Chúng tôi bước vào nhà gặp lúc ông Cẩn đang hớt tóc. Sau khi chào ông Cẩn, cha Bửu Đồng nói:

- Bữa qua Cậu nhủ tôi đưa Thiếu Úy Minh đến gặp Cậu, thì đây, ngài cầm tay tôi, Thiếu Úy Minh đây.

Ông chỉ vào bộ tràng kỷ, ông nói:

- Xin lỗi Cha, mời Cha và anh ngồi đợi cho tôi một lát.

Hớt tóc xong ông đến ngồi phía đối diện cha Đồng và tôi, ông hỏi:

- Anh Minh đây hỉ? Anh mấy tuổi rồi ?

- Dạ thưa ông Cậu con 26 tuổi.

- Gia đình được mấy anh em?

- Dạ, con được bốn anh em ruột và hai đứa em con bà mẹ kế.

- Anh vô lính lâu mau rồi?

- Dạ con vô lính cuối năm 1950.

-Anh lập gia đình khi mô?

- Con lập gia đình tháng tư năm ngoái.

- Còn trẻ vậy mà lập gia đình chi sớm rứa?

- Dạ thưa ông Cậu, khi quyết định vô lính, là đã dứt khoát chọn con đường cho cuộc đời mình rồi, thì lập gia đình cho yên bề.

- Ờ, nói rứa chứ 26 tuổi lập gia đình cũng được rồi. Bây chừ đã có vợ, mai mốt có con, lại chỉ huy đơn vị chắc mắc việc lắm hỉ?

- Dạ chỉ huy đại đội cũng không có gì phức tạp lắm. Vả lại đóng đồn cũng không có việc gì nhiều, có điều cứ đêm đến là lại lo bị địch tấn công. Nhất là khu vực tránh nhiệm của con nhiều đồn bót quá. Đồn Hương Vệ thì quá thô sơ về bố phòng cũng như vũ khí. Đồn chính qui thì đồn nọ cách đồn kia quá xa.

- Vùng ngoài nớ lưng chừng giữa trời giữa đất, có Hương Vệ nhiều cũng đỡ. Nhưng Hương Vệ như của Cha Đồng đây, để cho nó đến bao vây rồi giải vây thì mệt quá hỉ ?

Tất cả chúng tôi cùng cười. Ông Cẩn tiếp;

- Dù trách nhiệm nhỏ cũng có điều phải lo lắng. Những khi rảnh rỗi gắng học hành, đọc sách báo thêm, để mở mang kiến thức, sau ni lên chức phải gánh trách nhiệm lớn hơn, có khả năng mà mần.

- Dạ !

Câu chuyện giữa ông Cẩn, Cha Đồng và tôi kéo dài khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì cha Đồng và tôi cáo từ ông. Khi chúng tôi ra đến sân, ông Cẩn dặn với;

- Khi mô rảnh anh Minh cứ vô chơi.

- Dạ ! Cám ơn ông Cậu

- Về lại nhà Cha Bửu Đồng, ngài dặn tôi;

- Ông Cẩn khôn ngoan, anh ráng năng ghé thăm ông, sẽ học hỏi được nhiều điều hay đấy .

PN99
03-12-2009, 18:47
Chương 1.2


CÁC BẬC SINH THÀNH


CỤ NGÔ ĐÌNH KHẢ


Cụ Ngô Đình Khả chánh quán làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, miền Trung Việt Nam.

Sinh trưởng Trong một gia đình nho phong, thuở thiếu thời cụ Ngô Đình Khả được hấp thụ một cách sâu sắc nền nho học Khổng–Mạnh. Khi vào học ở chủng viện, cụ được học thêm tiếng La Tinh và tiếng Pháp.

Theo Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục ghi lại, thời kỳ đó, đạo Công Giáo còn đang bị bách hại. Là một chủng sinh xuất sắc, cụ Khả được chọn đưa qua học ở Tổng Chủng Viện của dòng Thừa Sai Paris tại đảo PouloPinang, Mã Lai, cùng với chủng sinh nước nhật, Tàu, Thái Lan.

Sau khi hoàn tất chương trình học ở Tổng Chủng Viện này trở về nước, thời gian thử thách để được chọn lên chức linh mục, cụ được cử phụ trách dạy môn Triết tại Đại Chủng viện Giáo Phận Huế. Qua nhiều năm dạy học. học trò của cụ nhiều người đã được thụ phong Linh Mục mà cụ vẫn không được chọn.

Một hôm , cha Bề Trên Chủng Viện gọi cụ lên bảo; “ Này con , cứ thế này dù con có ở đây một trăm năm nữa con cũng không được gọi chịu chức Linh Mục. Mặc dầu con không có lỗi gì, nhưng con không có tên trong danh sách những người được chọn của Đức Cha Gaspar. Cha biết con còn một mẹ già không còn làm gì được, con hãy về chăm sóc mẹ con trong những ngày cuối đời của bà.”

Vâng lời Bề Trên, cụ trở về đời sống giáo dân. Cụ được Linh mục chính xứ Phú Cam, cha Allys, giới thiệu nhận thông dịch tài liệu tiếng La Tinh và tiếng Pháp cho hải quân và Quân đội Pháp để sinh sống và phụng dưỡng mẹ già. Khi ấy cụ được 30 tuổi.

Cuộc đời của cụ trải qua từ nơi thôn dã thời thơ ấu, đến chốn thị thành khi ở Đại Chủng Viện Huế. Hình ảnh cuộc sống cực khổ lầm than, nhiều bất công của người dân nghèo ở nông thôn cũng như thành thị, đã đưa vào đầu óc cụ nhiều suy nghĩ. Khi du học ngoại quốc, tiếp xúc với các bạn cùng trường đến từ Nhật, Tàu, Thái Lan... và trước mắt cụ là đời sống của người dân địa phương tại Mã Lai. Tuy khi ấy Mã Lai chưa phải là một nước phát triển, nhưng đời sống xã hội của người dân đã được cải thiện nhờ vào đời sống chính trị được hưởng nhiều quyền tự do hơn ở Việt Nam. Từ đó, cụ hằng mơ ước được thực hiện một cuộc cải tổ xã hội , canh tân đất nước , đem lại cho người dân Việt Nam một cuộc sống công bằng tốt đẹp hơn.



Qua những năm du học, cụ thấy rằng, nền văn hóa Âu Tây với nhiều tư tưởng khoáng đạt, đã mở ra cho các nước trong vùng kho tàng kiến thức, dân trí được nâng cao. Nhờ đó các nước này đã đạt được một số tiến bộ trong nhiều lãnh vực: Văn hóa, chính trị, xã hội và nhất là về khoa học kỹ thuật. Nhưng về mặt đạo lý, luân lý, những tư tưởng hướng thượng của văn hóa Đông Phương, rường cột của một xã hội trật tự, nền nếp, hòa ái, nét đặc thù của các dân tộc Á Đông nói chung và của Việt Nam nói riêng, thì lại bị nền văn hóa Tây Phương làm cho bị sút giảm, lu mờ và dần dà bị mai một.

Vì thế theo cụ , tại một nước bị trị và dân trí thấp kém, muốn canh tân đất nước, cải tiến xã hội phải thu hồi được Độc Lập. Nhưng muốn giữ được nền Độc Lập cần phải có nhân tài quản trị việc nước. Muốn có nhân tài thì phương cách duy nhất là mở mang và đại chúng hóa giáo dục, giúp cho thanh thiếu niên dễ dàng học hành nâng cao kiến thức. Với Việt Nam, nơi tư tưởng Âu Tây mới du nhập và đang có lợi thế phát triển, cần phải có một đường lối tạo được sự kết hợp hài hòa giữa luồng tư tưởng cổ đại Á Đông. Có như thế mới bảo tồn được những tinh túy của nền văn hóa dân tộc đã từ lâu đời xây dựng trên nền tảng tư tưởng Á Đông. Qua ý niệm này, cụ chủ trương cần phải có một hệ thống giáo dục được giảng dậy kết hợp cả hai nền văn hóa Đông và Tây.

Từ nhận định ấy, khi trở về đời sống thường dân, cụ quyết tâm theo đuổi việc thực hiện một cuộc cách mạng ôn hòa theo đường lối cụ đã lựa chọn.

Thời bấy giờ , cụ là một học giả hiếm có với kiến thức sâu sắc về cả hai nền văn hóa Đông – Tây, nổi tiếng thông nho, thông thạo tiếng Pháp và cổ ngữ La Tinh. Thêm vào đó, với những hiểu biết và kinh nghiệm thu thập được về tình hình bên ngoài qua những năm du học ngoại quốc, cụ được Vua Đồng Khánh triệu dụng, giao phó quyền Tổng Chỉ Huy Binh Đội của Triều Đình. Nhưng chỉ sau bốn tháng, nhận thấy môi trường này không thích hợp và không giúp gì cho việc thực hiện lý tưởng của mình. Gặp lúc thân mẫu lâm trọng bệnh, cụ xin từ chức để có thể dành trọn thời giờ chăm sóc mẹ già. Sau khi thân mẫu qua đời, cụ không trở lại Triều Đình nữa. Và phải đợi đến trào Vua Thành Thái cụ mới có cơ hội thực hiện chủ trương của mình.

Vua Thành Thái khi lên ngôi tuy trẻ tuổi nhưng rất thông minh và giầu lòng yêu nước. Vì đã từng là nạn nhân của sự tranh chấp quyền hành trong Triều Đình và sự áp bức của chính quyền thực dân Pháp đối với Nam Triều, qua việc Vua cha bị truất phế sau chỉ mới ba ngày mới lên ngôi Thiên Tử. Vì thế, sau khi lên ngôi, nhà Vua đã nuôi hoài bão tìm đường nâng cao dân trí, canh tân đất nước, hy vọng lấy lại phần nào quyền hành trong tay chính quyền Bảo Hộ để có thể cải tạo xã hội Việt Nam.

Khi được biết chủ trương mở mang, đại chúng hóa giáo dục theo đường hướng kết hợp hai nền văn hóa Đông–Tây của cụ Ngô Đình Khả, nhà Vua rất tâm đắc. Vì thế, khi vừa đủ tuổi (18 tuổi năm 1896) được tự quyết định việc triều chính, Vua đã triệu dụng và giao phó cho cụ trách nhiệm tổ chức và điều khiển một cơ sở Giáo Dục cấp Quốc Gia đúng theo đường lối, chủ trương của cụ. Cơ sở này được gọi là trường Quốc Học. Trong chức vụ Chưởng giáo (Hiệu trưởng), cụ Khả thuyết phục được chính quyền Bảo Hộ chấp thuận cho trường được giảng dạy cả hai nền văn hóa Đông và Tây, với ba ngôn ngữ: Quốc Văn, Pháp Văn và Hán Văn.

Sau hai năm cụ điều khiển trường Quốc Học, mến phục tài đức và lòng chung thủy, ngay thẳng của cụ và để dễ dàng tiếp xúc với cụ, Vua Thành Thái phong cụ lên chức Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần. Ít lâu sau cụ lại được giao phụ trách về lễ nghi và an ninh trong Triều, được phong chức Thị Vệ Đại Thần, và vào cuối trào (1902), nhà Vua lại ban tặng cụ tước vị Hiệp Tá Đại Học Sĩ.

Suốt gần 80 năm (1986-1975) tồn tại, trường Quốc Học Huế đã cung cấp cho đất nước rất nhiều nhân tài trong mọi lãnh vực. Nhà trường đã dựng bia để nhắc nhở cho hậu thế ghi nhớ công ơn của Cụ.

Trong khi Vua, Tôi, đang âm thầm thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa họ chủ trương thì ý đồ của họ bị bại lộ. Vua Thành Thái bị chính quyền thực dân gán cho mắc chứng bệnh điên, ép triều đình ký sớ xin Vua thoái vị rồi đưa qua án trí tại đảo Réunion. Dưới áp lực của nhà đương cuộc Pháp, các vị Thượng Thư của Triều Đình đã ký sớ, chỉ một mình Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần Ngô Đình Khả nhất quyết khước từ không chịu ký.

Để tỏ lòng khâm phục và ngưỡng mộ một vị quan đã coi nhẹ danh lợi khi phải đối đầu với cường quyền hầu bảo toàn khí tiết và lòng chung thủy, dân chúng miền Trung truyền tụng nhau câu vè: “ Đầy Vua không Khả - Đào Mả không Bài” (Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài). Sau này khi Thượng Thư Ngô Đình Diệm treo ấn từ quan, dân chúng đã thêm vào hai câu trên một câu thứ ba: “ Hại dân không Diệm”, và được truyền tụng cho đến ngày nay.

Cụ Tôn Thất Thiết, hiện cư ngụ tại thành phố Irvine, Orange Country, California, Hoa Kỳ, được thân phụ, cụ Tôn Thất Hân, khi ấy là Phò Quan Quận Vương, Phụ Chánh Thân Thần (Chức vụ đầu Triều, phụ tá cho Vua trong công việc Triều Chánh) kể lại:

Ngày Vua Thành Thái ra đi sống kiếp lưu đày, toàn thể triều đình văn võ đứng hai hàng trước sảnh đình điện Thái Hòa bái biệt Vua.

Từ trong điện bước ra, Vua đến trước mặt cụ Tôn Thất Hân đứng đầu hàng Văn, từ biệt cụ, Vua nhắn nhủ: “ Trong họ chỉ còn mình thầy, xin thầy ráng phù giúp Tân Vương, giữ gìn xã tắc, bảo vệ thanh danh Hoàng Tộc.” Rồi vua đi thẳng tới trước mặt cụ Ngô Đình Khả, đứng cách cụ Tôn Thất Hân sáu, bảy cấp. Dừng lại giã biệt, nhà Vua nói: “ Tôi cảm ơn thầy, thầy có tâm huyết, thầy ráng bảo trọng để giúp nước.” Sau đó Vua đi thẳng không chào hỏi vị khách nào khác nữa.

Sau khi đày Vua Thành Thái đi rồi, Thượng Thư Ngô Đình Khả bị xét xử vì đã quyết liệt chống đối bản án đày Vua. Triều đình một lần nữa chịu sức ép của chính quyền thực dân, lột hết chức tước và quyền lợi của cụ rồi cho về hưu.

Khi còn tại chức cụ có tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, gia đình đã sống một cuộc sống không mấy dư giả, nên khi cụ phải về hưu dưới áp lực và âm mưu hãm hại của Thực Dân, bị theo dõi kìm kẹp, gia đình cụ lâm vào hoàn cảnh thực sự khó khăn. Cảm phục vị đồng liêu vì khí phách, can trường mà phải chịu hoạn nạn, trong một thời gian khá dài, Cụ Tôn Thất Hân đã ngầm giúp cụ Khả mỗi tháng 10 đồng để chi dùng.

Đến trào Vua Khải Định, nhà Vua được nghe nhiều vị thượng thư trong Triều tâu trình về đức độ, tài năng công lao của cụ Khả đối với Nam Triều. Có lẽ nhờ chủ trương thân Pháp, nhà Vua đã được chính quyền bảo hộ ngầm chấp thuận cho việc phục hồi lại phẩm trật cho cụ Khả và cho cụ truy lãnh đầy đủ lương bổng của 12 năm bị huyền chức. Từ đó gia đình cụ mới thoát khỏi cảnh thiếu thốn.

Chứng tích cụ thể về sự liêm khiết của cụ Khả chính là khu dinh thự của cụ. (Sơ đồ 1)

Khu tư dinh của Thượng Thư Ngô Đình Khả được xây cất trên một khu đất bề ngang khoảng 30 thước, chạy sâu vào khoảng 50 thước, tọa lạc trên đường Nguyễn Trường Tộ, con đường từ trước nhà thờ chính tòa Phú Cam chạy thẳng đến bờ hữu ngạn sông Hương. Cổng tư dinh được dựng trên bốn cột gỗ, mái lợp ngói, theo kiểu các dinh thự nhỏ ở Huế. Hai bên cổng là hàng rào bằng cây tươi chạy dọc theo đường. Người địa phương gọi cây này là cây “chè tàu”.

Từ cổng đi vào là con đường đất rộng chừng hai thước, dài khoảng 10 thước, hai bên là hàng rào cây tươi cắt bằng. Bên trái là căn nhà lầu mỗi bên độ 9 thước, xây tường gạch, sườn nhà bằng gỗ, nền nhà lót gạch bông, gác bằng ván, mái lợp ngói. Phía trước nhà là một sân đất mỗi bề chừng 10 thước, kế đến là một cái hồ cạn mỗi cạnh khoảng 4 thước, giữa hồ có một hòn non bộ.

Ngôi nhà lầu này, bề ngang cũng như bề sâu đều chia làm ba gian. Bước vào nhà, gian giữa, tính theo bề ngang, hai căn ngoài để trống, căn trong cùng, trên đà treo một bức hoành phi, hai bên cột treo hai câu đối, bên trong là hương án thờ cụ Ngô Đình Khả, trên hương án là bức ảnh thờ cụ Khả cao chừng một thước. Gian bên trái, cả ba căn từ ngoài vào trong đều để trống. Gian bên phải, ở căn ngoài cùng, kê một bộ tràng kỷ cẩn xà cừ sơ sài; phía sau bộ tràng kỷ, ở căn thứ hai, một chiếc bàn dài kê dọc tường. Giữa hai căn thứ hai và thứ ba có vách ngăn bằng ván, chừa một cửa ra vào. Căn nhà này có một bên cửa hông đi ra sân bên cạnh và một cửa mở ra phía sau gặp cầu thang phía bên trái để lên lầu và qua ngôi nhà tranh phía bên phải. Trên lầu, hai gian bên phải và trái, tính theo bề ngang ngôi nhà, đều để trống. Gian giữa ở căn trong cùng có một bàn thờ Tổ Quốc, trên án thư có một bộ lư hương và một bộ chân đèn lớn bằng đồng. Sau án thư là một bản đồ nước Việt Nam cao khoảng hơn một thước. Trong cùng là đảng kỳ Cần Lao Nhân Vi Ccách Mạng Đảng.

Bên phải căn nhà lầu từ ngoài sân nhìn vào, thụt vào ngang tường sau ngôi nhà này, là căn nhà tranh ba gian hai chái. Phía trước là dàn cửa bằng gỗ chạy suốt ba gian theo lối cổ Việt Nam. Phía sau và hai đầu hồi vách bằng đất, mái lợp tranh , nền đất. Từ ngoài cửa đi vào, hai chái là kho để đồ đạc trong nhà, gian giữa kê một tràng kỷ mộc, phía sau là hương án thờ cụ Khả, gian bên trái là nơi bà cụ Khả nằm, gian bên phải kê một bộ sập (phản). Ngoài sân phía trước gian giữa, có một bình phong xây bằng gạch. Trước tấm bình phong là một vườn hoa mỗi bề chừng bốn thước. Sát đẩu hồi ngôi nhà này, phía bên trái từ trong nhìn ra, là bếp ba gian, cũng mái tranh vách đất. Phía sau bếp là một sân rộng chừng 10X15 thước lát gạch và một nhà kho chứa lúa, dụng cụ làm ruộng và nơi làm việc của người làm trong nhà.

Sau này, mỗi dịp đi kinh lý vùng phía bắc miền Trung, Tổng Thống Ngô Đình Diệm thường ghé về lạy chào thân mẫu và nghỉ đêm tại nhà. Nhất là hàng năm vào dịp lễ giổ cụ Ông, anh em con cháu tề tựu về đông không có nơi nghỉ. Quan khách cũng nhiều, trong nhà không đủ chỗ tiếp. Đường từ ngoài cổng vào nhà và sân trước hay bị bùn lầy vì còn trong mùa mưa. Nhưng cũng mãi cuối năm 1956 ông Cẩn mới đổ xi măng được con đường vào nhà và sân trước. Qua năm sau mới xây lại cổng và bức tường phía đường Nguyễn Trường Tộ, thay hàng rào cây.

Dưới đây xin cống hiến quý vị độc giả một câu chuyện thật cảm động tôi mới biết được nhờ cái cổng mới này.

Sau khi cái cổng mới hoàn tất, mái cổng cũ vẫn được giữ nguyên cả khung và ngói đặt lại lên cổng mới. Tôi ngạc nhiên vì nhìn kỹ, cổng và mái không ăn khớp với nhau lắm. Một hôm vào trình công việc, vui chuyện tôi hỏi ông Cẩn;

- Thưa Cậu, đã xây cổng mới sao lại còn giữ lại cái mái cổng cũ, trông nó không được hợp nhau lắm?

- Chú không biết, đó là một kỷ vật quý giá lắm đấy.

Và ông kể:

- Sau khi cụ cố lên đến Thượng thư được ít năm, bạn bè quan khách đến chơi nhiều, nhà chật chội không có nơi tiếp. Nhất là Vua Thành Thái, lâu lâu cũng qua thăm chơi với ông Khôi và Đức Cha, nên cụ cố đã phải mần thêm căn nhà lầu. mần nhà xong, nhưng một thời gian lâu sau chưa mần được cổng. Vua Thành Thái biết cụ cố chưa có tiền, nên Vua làm tặng cụ cố cái cổng. Chừ ông Cụ (Tổng thống Ngô Đình Diệm) nhủ giữ cái mái cổng lại để nhớ ơn nhà Vua.

Năm 1959 ông Cẩn xây thêm được một căn nhà lầu 4 phóng ngay sát sau căn lầu cũ, và năm 1960 xây lại căn nhà bếp, mái lợp ngói, nền tráng xi măng. Đồ đạc bầy biện, trang trí trong nhà vẫn giữ nguyên như trước, chẳng thay đổi gì.

Đó là cơ ngơi của một gia đình mà đới Cha, gần mười năm làm Thượng Thư Triều Đình, Thầy dạy của Vua. Đến đời con suốt mười năm qua các chức vụ Tri Huyện, Tri Phủ, Án Sát, Tuần Vũ, Thượng Thư đầu Triều và 9 năm nắm quyền lãnh đạo đất nước trong chức vụ Tổng Thống.

Trở lại chuyện Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần Ngô Đình Khả bị cho về hưu.

Quay về đời sống thường dân trong cảnh thanh bần, cụ dốc hết sức vào việc rèn luyện con cái từ tư tưởng đến trí, đức, để sau này tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dang dở của cụ.

Cụ áp dụng một đường lối giáo dục con cái rất đặc biệt. Ngay từ khi còn tại chức, trong cuộc sống hàng ngày cụ không chỉ nghiêm khắc với chính mình, nêu gương một nếp sống cần kiệm, liêm khiết, trung nghĩa. Cụ bắt các con sống đúng theo khuôn mẫu ấy, nhằm hun đúc, xây đắp cho họ một lý tưởng sống vững chắc trên nền tảng một Đức Tin tôn giáo bất biến và một tinh thần nho học Khổng-Mạnh thâm sâu.

Nhờ phương pháp giáo dục có sức thuyết phục mạnh mẽ và nghiêm ngặt này mà tất cả các con của cụ, trai cũng như gái, đã có cùng một quan niệm sống, một tư tưởng, một ý thức về một cuôc cách mạng dành độc lập, canh tân đất nước, cải tiến xã hội Việt Nam với một lòng yêu nước, yêu dân chân thành. Cụ thể như trường hợp thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, sau ngày miền Nam sụp đổ 30-4-1975, đến định cư tại Úc, bà đã thuê người uốn hai cây cảnh trồng trước nhà thành hình hai con rồng, và hàng ngày bà tự tay chăm sóc hai cây cảnh này. Bà nói:

“ Để nhắc cho con cháu sau này nhớ về quê hương Việt Nam. Chúng có thể quên bất cứ cái gì, nhưng đừng để chúng quên Đất Nước và Dân Tộc.”

Về phương diện tôn giáo, cụ là một người rất mộ đạo với sự hiểu biết thâm sâu. Đời sống của một ki tô hữu gương mẫu với sự suy gẫm, chiêm nghiệm thâm thúy về cuộc sống hiện tại và mai sau. Cụ linh cảm được ngày lìa đời của cụ từ ba năm trước. Cụ đã cho các con biết điều này và từ đó, hàng ngày cụ đã lo chuẩn bị cho cuộc sống đời sau.

Năm cụ qua đời (1925), trước Tết ít lâu cụ bị sốt, cơn sốt mỗi ngày mỗi nặng hơn. Các con đưa cụ vào bệnh viện, bác sĩ khám nghiệm cho biết cụ bị bệnh cháy phổi (Pleurisy). Thời kỳ ấy chứng bệnh này thuộc loại bệnh nan y.

Bà Nguyễn Văn Ấm, thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể lại: Thời gian cụ nằm điều trị tại bệnh viện, một hôm, trong lúc các con tụ tập quanh cụ cố thì nhận được thơ của thầy Thục từ Rôma gửi về, do người làm trong nhà đem đến. Trong thơ thầy kể chuyện Đức Thánh Cha mới phong ba vị Thánh, và trong các bạn học có một thấy thân phụ mới chết vì bệnh cháy phổi. Ông Khôi đọc thơ thấy nói đến chuyện chết vì bệnh cháy phổi, ông bàn với các em dấu cụ cố chuyện đó, sợ cụ biết chuyện, có thể không tốt cho việc chữa trị. Buổi trưa, khi ra về, ông Khôi lén để lại lá thơ dưới gối cụ nằm. Buổi chiều khi các con trở vào cụ hỏi:

- Bay có để cái chi dưới gối của Thày không?

- Dạ có để chi mô. - Ông Khôi thưa lại.

- Phải có cái chi! Trưa ni cái gối bị nâng lên hạ xuống ba lần và Thầy thấy rõ ràng ba bàn tay giơ lên ban phép lành cho Thầy.

Nghe vậy ông Khôi đành lấy thơ của thày Thục ra đọc cho cụ nghe. Nghe xong cụ bảo:

- Rứa là dấu Chúa cho Thầy biết sẽ chết trong dịp này, Thôi, bay đưa Thày về nhà lo chuẩn bị mọi chuyện.

Về đến nhà bệnh tình cụ trở nên nguy kịch, cụ phải thở bằng bình dưỡng khí. Cảm thấy đã đến giờ lìa đời, cụ gọi các con đến bên giường để chúc lành cho từng người nhưng theo thông lệ thì phải có một người thay mặt cho tất cả đứng ra xin. Anh chị em xin cụ chỉ định một người, cụ chỉ bà (thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận). Sau khi bà đứng ra xin cụ chúc lành cho các con, anh chị em lần lượt đến quỳ trước giường cụ nằm, cụ đặt tay lên đầu chúc lành cho từng người một. Sau khi đã chúc lành cho các con, cụ trối lại cho họ phải tiếp tục thực hiện lý tưởng của cụ. Với ông Luyện cụ dặn; “ Phải đưa thằng Luyện qua Pháp học. Để ở nhà mẹ chiều như rứa sẽ hư.” Đặc biệt với ông Diệm cụ trối; “ Diệm, con có đủ đức tính cần thiết để trở thành người lãnh đạo tốt, con phải lãnh đạo. Và cụ nói với tất cả các con: Các con phải cùng với nó (ông Diệm) tranh đấu dành lại một nền độc lập hoàn toàn, thì mới thực hiện được công cuộc cải tạo xã hội xóa bỏ được bất công được.” Tất cả các con cụ đã thề sẽ cùng với ông Diệm thực hiện bằng được ước nguyện của cụ.

Sau khi cụ Ngô Đình Khả qua đời. Trong trách nhiệm quyền huynh thế phụ, quyền này được tuyệt đối tôn trọng trong gia đình họ Ngô, ông Ngô Đình Khôi thực hiện ngay những lời trăn trối của thân phụ. Trước hết, ông đưa ông Ngô Đình Luyện qua Pháp du học. Với những người còn lại trong gia đình, ông không bỏ lỡ dịp họp mặt nào mà không nhắc nhở họ, đặc biệt với ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn, phải sống cho ước vọng của cha.

Cụ Bà Ngô Đình Khả

Cụ Bà Ngô Đình Khả - nhũ danh Phạm Thị Thân- , chánh quán làng Phú Cam, quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên. Sinh trưởng trong gia đình công giáo rất ngoan đạo, cụ có một người chị gái: bà Cửu Bích, một người em gái: bà Hương Đằng, và hai người em trai: ông Cửu Nguyên và ông Khóa Hành. Từ nhỏ đã được tiếng là thùy mị, nết na.

Kết hôn với cụ ông Ngô Đình Khả, cụ sinh hạ được chín người con, sáu trai, ba gái:

- Ngô Đình Khôi

- Ngô Đình Thị Giao, tức bà Thừa Tùng

- Ngô Đình Thục

- Ngô Đình Diệm

- Ngô Đình Thị Hiệp, tức bà nguyễn Văn Ấm, thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận.

- Ngô Đình Thị Hoàng, tức bà Cả Lễ (Nguyễn Văn Lễ)

- Ngô Đình Nhu

- Ngô Đình Cẩn

- Ngô Đình Luyện

Từ khi lập gia đình cho đến khi hết đời, cụ là một bà mẹ thánh thiện, phúc hậu, giầu lòng bác ái. Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục ghi lại: “ Tôi trung thành được với ơn gọi của tôi là nhờ lời cầu nguyện và lòng bác ái “anh hùng” đối với người nghèo của mẹ tôi.”

Một bà cụ hiện ở Việt Nam, bà Đốc Bình, cùng trang lứa và là bạn thân thiết với thân mẫu Đức hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể rằng, hồi còn nhỏ bà thường xuống nhà cụ Cố chơi, đôi lần chị em ham chơi, la lối, leo trèo, bà cụ chỉ gọi vào ôn tồn khuyên nhủ, nặng lắm cụ cũng chỉ đe đánh đòn. Chưa bao giờ cụ dùng đến roi vọt hay la mắng lớn tiếng.

Sau khi cụ ông mất, vì phải lao tâm lao lực nuôi dậy con cái, cuối thập niên 40, cụ ngã bệnh và bị liệt nửa người. Từ đó cụ phải nằm một chỗ không đi lại được.

Vì là con gái, trong thời của cụ ít được học hành, nhưng cụ cũng có trí nhớ thông minh sáng suốt kỳ lạ. Một hôm vui chuyện, ông Cẩn thích thú kể cho tôi nghe hai câu chuyện dưới đây:

Đầu năm 1958, dịp về dự lễ giổ cụ ông, Tổng Thống Diệm cho ông Cẩn một áo choàng (overcoat) khá đẹp. Tổng Thống đưa cái áo cho bà cụ coi trước khi trao cho ông Cẩn. Bà cụ khen cái áo đẹp quá, bắt ông Cẩn treo trên cột nhà ngay cuối giường nằm để bà canh chừng cho kẻo mất.

Thấy bà cụ thích và quí cái áo đó quá, năm sau gần đến ngày giỗ cụ ông, ông Cẩn nảy ý tinh nghịch lừa lúc bà cụ ngủ lấy cái áo dấu đi. Khi bà cụ thức dậy không thấy cái áo, bà kêu ông Cẩn hỏi, ông giả bộ hốt hoảng: Cái áo vẫn treo ở đây mà răng chừ mất mô rồi? Bà cụ kêu lên: Lạy Chúa tôi! Cái áo quí rứa mà để đứa mô lấy mất chừ mần răng có tiền mua cái khác.

Mấy ngày sau Tổng Thống Diệm về vào vấn an bà cụ, vừa thấy ông cụ hỏi:

- Anh đã về đó hỉỷ? Nè, anh có tiền cho thằng Cẩn một vài đồng chi, đặng nó mua cái áo choàng khác. Cái áo năm rồi anh cho nó, đứa mô lấy cắp mất rồi chừ lạnh không có áo mà mang, tội nghiệp nó.

Tổng Thống Diệm ngó qua ông Cẩn, ông tủm tỉm cười. Hiểu ý, Tổng Thống thưa lại: Không phải mất mô, chú Cẩn nó dỡn mẹ đó.

Bà cụ thở dài:

- Rứa mà nó nói với tôi đứa mô lấy mất rồi.

Ông cười thích thú và kể tiếp: Nằm rứa chứ chi cũng biết hết đấy. Hồi 1954, ông Cụ (Tổng Thống Diệm) mới ở ngoại quốc về ra vấn an bà, vừa vô tới chỗ bà nằm chưa kịp nói chi, bà hỏi liền:

- Anh về mần chi rứa?

- Dạ , mấy năm rồi đi xa chừ con mới về được , con ra coi mẹ đặng có khoẻ không.

- Anh về mần chính phủ phải không?

- Dạ, thưa mẹ phải.

- Úi chao! Tình hình lúc ni như biển động, sóng to gió lớn, mình thì nhỏ bé như cái lá tre mần răng mà chèo chống cho nổi! Anh có coi mần được chi không mà về?

- Thưa mẹ, con biết tình hình lúc ni khó khăn lắm, đã không ai dám đứng ra mần, mình mà cũng không dám đứng ra nữa bỏ dân bỏ nước cho ai, Mẹ? Xin mẹ cứ yên tâm cầu nguyện cho con, có Chúa giúp con sẽ mần được.

Ông Cẩn tiếp:

- Lạ lùng, trong nhà không hề có ai nói chuyện tình hình tình hoóc chi với bà khi mô, răng mà biết rứa?

Cụ quả là bậc hiền mẫu, cụ sống một đời âm thầm, đức hạnh, và nhu mì. Tuy ở địa vị cao sang cụ vẫn sống bình dị, không giao du đua đòi lối sống của nhiều vị mệnh phụ thời bấy giờ.

Đời cụ cũng kết thúc trong âm thầm, lặng lẽ và khiêm tốn như cuộc sống của cụ.

Sau ngày đảo chánh 1-11-1963, cụ được đưa vào Sài Gòn, họ cho bà Nguyễn Văn Ấm, thân mẫu Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, nhận về chăm sóc. Cụ qua đời tại Sài Gòn ngày 2-1-1964, trước khi ông Ngô Đình Cẩn, người con thứ ba của cụ bị giết hơn ba tháng.

PN99
03-12-2009, 18:58
Chương 2.1


BIẾN CỐ "CỜ PHẬT GIÁO"


TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VỚI CÁC TÔN GIÁO


Ngay từ khi chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa chủ trương vô thần xuất hiện tại Việt Nam (1930), không chỉ riêng ông Ngô Đình Diệm, mà tất cả các anh em ông đều đã chú tâm đến việc nghiên cứu tìm một sách lược đối phó với chủ nghĩa vô cùng tai hại này. Họ quan niệm rõ ràng rằng. Niềm tin tôn giáo là sức mạnh vô địch trong cuộc chiến chống lại chủ thuyết vô thần nguy hiểm ấy.

Vì thế, khi nhận trách nhiệm lãnh đạo đất nước trong tình hình cuộc chiến Quốc-Cộng đang có nhiều bất lợi cho phía Quốc Gia, nhất là khi đất nước bị chia đôi bởi hiệp định Geneva, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tiên kiến một cuộc chiến tranh khó khăn và tàn khốc hơn do cộng sản bắc việt điều khiển sẽ xảy ra tại miền Nam sau khi hiệp định này được thi hành. Để đối phó với cuộc chiến do một chủ nghĩa mang tính giáo điều hướng dẫn, ông đã chuẩn bị "sức mạnh vô địch" bằng chính sách đặc biệt quan tâm đến vấn đề bảo vệ, cũng cố, phát triển niềm tin tôn giáo, tạo sự hòa đồng giữa các tôn giáo, hậu xây dựng khối đoàn kết toàn dân trong toàn miền Nam.


BẢO VỆ, CỦNG CỐ, PHÁT TRIỂN NIỀM TIN


Cụ thể, đối với đồng bào Thượng, mặc dầu niềm tin của họ mang nhiều sắc thái mê tín, dị đoan, vẫn được Chính Phủ tôn trọng. Vì vậy trong chương trình Thăng Tiến đồng bào Thượng tại các địa phương cũng như chương trình giáo dục văn hóa và huấn nghệ cho thanh niên Thượng của Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng, vẫn đề niềm tin của họ không hề bao giờ được đề cập tới. Với hai tôn giáo mới được thiết lập tại miền Nam: Cao Đài Giáo và Phật Giáo Hòa Hảo, Thủ Tướng Diệm đã có quyết định và hành động quyết liệt đối với tổ chức võ trang của họ vì mục đích thống nhất Quân Đội, tập trung sức mạnh Quốc Gia, như quan niệm được ông xác định ngay từ khi bắt đầu bước vào con đường tranh đấu dành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước. Quan niệm này được ông xác định lại trước Quốc Trưởng Bảo Đại khi ông nhận trách nhiệm đứng thành lập Chính Phủ, tháng 6. 1954 "Một nước mạnh, có uy tín, cần phải có một đạo quân mạnh và kỷ luật". (Con Rồng Việt Nam. Trang 526) Nhưng với tổ chức và các sinh hoạt thuần thúy tôn giáo của họ, vẫn được Chính Phủ triệt để tôn trọng và khuyến khích. Đoạn viết của ông Lâm Thành Nĩ, cháu nội một vị Khai Đạo của Cao Đài Giáo, tác giả cuốn Thực Trạng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam, được trích dẫn trong phần này là một bằng chứng.


CÔNG BẰNG ĐỐI XỬ, TẠO SỰ HÒA ĐỒNG VỚI CÔNG GIÁO


a. - Dưới thời Pháp thuộc và qua các Chính Phủ dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại, Giáo Hội Công Giáo vẫn được hưởng quyền tự do mở các Chủng Viện để đào tạo Linh Mục, Tu Sĩ. Chương trình giảng dạy không phải chịu sự kiểm soát của Chính Phủ.

Đến thời Đệ I Cộng Hòa, cuối tháng 11. 1956, Tổng Thống Diệm đã ban hành Đạo Dụ 57/4, xóa bỏ quy chế này. Đạo Dụ ấn định: "Không ai được mở trường tư mà không có giấy phép của Chính Phủ. Các trường được phép mở phải chịu sự kiểm soát của Chính Phủ về nhân viên, chương trình giảng huấn".

Việc ban hành Đạo Dụ này đã gây nên một làn sóng phản đối dữ dội trong giới Công Giáo. Đầu năm 1957 Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, trong đó có Giám Mục Ngô Đình Thục, họp ra thông báo dẫn chiếu điều 17 Hiến Pháp, lên án Đạo Dụ 57/4 là vi phạm tự do tín ngưỡng và yêu cầu xóa bỏ tất cả những điều khoản liên quan đến các Chủng Viện.

Nhưng khi được giải thích và nhìn ra mục đích của Đạo Dụ là tạo sự hòa đồng giữa các tôn giáo, gây tình đoàn kết toàn dân, nhằm bảo vệ quyền lợi tối thượng của đất nước. Đạo Dụ đã được giới Công Giáo nghiêm chỉnh thi hành.

b. - Cựu Trung Tá Phạm Xuân Ninh tức nhà thơ Hà Thượng Nhân, một thi văn sĩ lão thành có nhiều uy tín và rất được nể trọng trong giới văn nghệ sĩ cũng như trong chính giới tại miền Nam thời xưa, cũng như tại hải ngoại ngày nay, một tín đồ Phật Giáo, Tổng Giám Đốc hệ thống Truyền Thanh Quốc Gia thời Đệ I Cộng Hòa. Trong một dịp lễ giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông đã viết mấy bài đăng trong Đặc San ngày lễ nói về một số đức tính của Tổng Thống. Trong đó có bài viết về vấn đề "k ỳ thị tôn giáo"như sau:

"Một hôm, một vị Linh Mục đến Đài Phát Thanh đề nghị với tôi cho chuyển mục "Tiếng nói Công Giáo" sang tầng số A, tức là tầng số Quốc Gia. Tôi trả lời rằng, làm như thế bắt buộc phải cho tiếng nói của các tôn giáo khác cũng được hưởng một quy chế tương tự. Điều đó không thể thực hiện được. Ít hôm sau tôi được giây nói của ông Nguyễn Đình Thuần bảo: Tổng Thống đã chấp thuận cho "Tiếng nói Công Giáo" được phát thanh trên tầng số A. Tôi thưa là việc đó rất quan trọng, phải có công văn minh xác, chứ tôi không thể thi hành theo khẩu lệnh. Ông Thuần gửi văn thư tới. Vị Linh Mục hôm trước cũng tới. Tôi nói: Để tôi xin trình diện Tổng Thống rồi mới quyết định. Ông Thuần gọi tôi vào tỏ ý bất bình vì tôi ngoan cố bất tuân thượng lệnh. Tôi trình bày lý do và xin phép ông cho tôi trình thẳng Tổng Thống. Ông gắt lên: "Anh muốn làm gì đó thì làm".

Ngay khi tôi gặp Tổng Thống đã hỏi: "Tại răng các Cha làm việc đạo đức mà lại cấm?"

Tôi thưa rằng: Trong nước có nhiều tôn giáo khác nhau. Nếu nay lại để cho Công Giáo được đãi ngộ đặc biệt thì lòng dân sẽ bất bình, nghĩ là Tổng Thống là Công Giáo nên quá thiên về đạo giáo của mình. Chúng tôi thiết nghĩ Đạo Chúa là Đạo Tình Thương, vậy thì dùng mục "Tiếng Vọng Tình Thương" rồi muốn nói gì thì nói. Tổng Thống ngồi lặng một lúc rồi gật đầu:

"Anh về bàn lại với các Cha. Đừng quá sốt sắng về việc đạo mà xảy ra chuyện kỳ thị tôn giáo".

Tôi ra về trình lại với ông Thuần. Ông Thuần ngạc nhiên hỏi: "Anh nói gì mà Tổng Thống lại đổi ý như vậy?" Tôi nói: Thưa việc này mới nhìn có vẻ tầm thường, nhưng suy nghĩ kỹ thì là cực kỳ nghiêm trọng. Vấn đề tôn giáo là một vấn đề vô cùng phức tạp. Rất nhiều vị tu hành vì quá sốt sắng với việc đạo, mà làm hại đến uy tín của chế độ.

Ông Thuần tỏ ý khen ngợi tôi đã dám thẳng thắn nói lên sự thật, nói lên ý kiến đúng đắn của mình.

Tôi nghĩ, chỉ vì nhiều người muốn cho xong chuyện, nên tìm cách bưng bít sự thật, chứ Tổng Thống Diệm là người lúc nào cũng muốn nghe lẽ phải và sự thật.

Bọn người bưng bít sự thật chính là bọn phản bội. Nước mất phần lớn là vì bọn người ấy. "


VỚI CAO ĐÀI GIÁO


Tại chương nói về "Kỳ thị tôn giáo" trong tác phẩm nhan đề Thực Trạng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam, tác giả Lâm Thành Nĩ, đã viết một đoạn như sau:

"Riêng vấn đề Pháp nạn của Phật Giáo hồi năm 1963. Theo ý nghĩ thô thiển của chúng tôi thì có lẽ mọi người trong chúng ta, ai cũng đồng ý rằng. Nếu thật sự nó chỉ có đơn giản, và nếu đúng là ông Ngô Đình Cẩn lạm dụng quyền hành ra lệnh cấm không cho treo cờ Phật Giáo. Rồi kế đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm không chịu nhìn nhận sự sai sót để hòa giải về vấn đề này, thì thật là một chuyện đáng tiếc. Và Phật Giáo đứng lên tranh đấu thì rõ là một việc làm thật chánh đáng, một hành động can đảm mà chắc ai cũng khâm phục. Nhưng khi tình hình đã rối ren rồi, cộng sản xen vào xúi bẩy, gây rối, chế thêm dầu vào lửa để hưởng cái "lộc" trước cảnh "cò nghiêu tranh nhau ngư ông đắc lợi" là điều không thể nào tránh khỏi. Hơn thế nữa có dư luận cho rằng một số lãnh tụ tranh đấu lại là cộng sản?! Một số khác thì vô tình làm theo kế hoạch của cộng sản?!

Còn cá nhân Tổng Thống Ngô Đình Diệm có chủ trương kỳ thị tôn giáo hay không? Xin mời quý vị xem vài giai thoại dưới đây, để rồi tự mình trả lời cho cái thắc mắc của mình một phần nào.

Vào tháng 10 năm 1963. Tôi có dịp đọc một cột báo của một nhật báo xuất bản vào thời điểm ấy. Tờ báo viết, vì lâu quá tôi không nhớ rõ từng chi tiết nên xin lập lại với xự dè dặt.

"Bất thần Tổng Thống lên xe đi, cũng bất thần Tổng Thống ra lệnh cho xe ngừng lại. . . ông bước vào một tiệm may ở vùng Phú Nhuận, tay chỉ xấp vải để trong tủ kiếng, miệng hỏi chủ tiệm:

- Hiện nay, một bộ đồ Veston bằng vải đó giá bao nhiêu tiền?. . .

Xe đang chạy ngang qua một Chùa Phật thấy treo cả hai lá cờ, cờ Quốc Gia và cờ Phật. . . Ông bước xuống xe vào Chùa thăm, thấy các vị tu sĩ vui vẻ đón tiếp ông. . . Về Dinh, trưa hôm ấy Tổng Thống ăn một bữa cơm thật ngon miệng".

"Đến chuyện trong nhà, ông nội của chúng tôi là một chức sắc cao cấp của Đạo Cao Đài mà chắc một số chính khách. Kể cả các vị Đại Sứ Hoa Kỳ của Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn trong khoảng thời gian từ năm 1955 đến 1963 có lẽ cũng không xa lạ gì ông. . . (đoạn này ghi tên các nhà lãnh đạo đất nước, một số chính khách, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các vị Đại Sứ v. v. . . ông nội tác giả đã từng hội kiến, xin được miễn trích dẫn)

Sở dĩ tôi nêu lên một danh sách dài dằng dặc như thế, là nhằm mục đích nói lên rằng: Nếu ông là người hay ăn nói sằn bậy, chuyện có nói không, chuyện không nói có. Thì ông không thể nào được quý vị lãnh đạo có tầm cỡ trên tiếp kiến, đàm đạo.

Đó là ông Khai Đạo Phạm Tấn Đãi của Đạo Cao Đài. Trong những lúc trò chuyện với con cháu ở gia đình, có lần ông nói với tôi về cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm:

Trong một lần tiếp phái đoàn Cao Đài đến thăm xã giao tại Dinh Độc Lập. Ông Ngô Đình Diệm nói trước phái đoàn rằng:

"Tôi kính trọng quý Ngài. Một số Linh Mục Công Giáo hãy gặp tôi thì xin phép được xổ số Tombola để có tiền xây dựng Nhà Thờ. Tôi nói Cao Đài người ta đâu có Tombola, mà tôi thấy họ cất thêm Thánh Thất mới đều đều".

Với thái độ đượm vẻ thoải mái hiện rõ trên gương mặt một cách khác thường ông nói tiếp:

"Rồi với nụ cười ngộ nghĩnh, vừa hóm hỉnh và vừa chua chát, ông Ngô Đình Diệm kết luận:

"Cứ Tombola! Tombola mới xây dựng được Nhà Thờ"

Xuyên qua việc làm và vài câu nói trên. Xin quý vị thử nghĩ xem đức độ lãnh đạo cũng như lập trường đối với Tôn Giáo của cố Tổng Thống Đệ I Cộng Hòa, ông Ngô Đình Diệm ra sao? Có kỳ thị hay không? Hay là những khuyết điểm phần lớn là do những người chung quanh hoặc bên lề những sai lầm, cố Tổng Thống cũng còn là một người có những đức tính cao quý của một con người trung thực trước những thực tế. Thực tế này được cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu xác nhận lại bằng lời nói với một người cố vấn của ông và ông này thuận lại với ông của chúng tôi:

"Mình giúp gì cho Cao Đài họ cũng không chịu nhận. Nhìn kỹ cũng không thấy họ lấy gì của phía bên kia. (cộng sản) Thế mà mỗi lần lên thăm, thấy họ lại hoàn tất hoặc đang xây dựng một công trình đồ sộ mới", "Người của họ thật là có tinh thần".

Ngoài ra việc cố Tổng Thống dùng Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Ông này đã từng chống một số Linh Mục người Pháp, giữ một chức vụ quan trọng ở bên cạnh mình. Điều này cũng cho thấy một phần nào, có lẽ ông không phải là người sùng đạo đến mù quáng mà chỉ là con chiên ngoan đạo, một người tín ngưỡng. (Thực Trạng Cuộc Chiến Tranh Việt Nam. Trang 263)


VỚI PHẬT GIÁO


Phật Giáo là một tôn giáo du nhập Việt Nam lâu đời, đã đi sâu vào tâm thức và đời sống người dân, có một khối tín đồ quan trọng. Nhưng ông Diệm nhìn thấy Phật Giáo tổ chức quá lỏng lẻo, có thể là một môi trường thuận lợi cho đối phương xâm nhập, lợi dụng làm bình phong thực hiện cuộc chiến tranh khuynh đảo và nổi dậy dưới danh nghĩa "nhân dân". Nếu để địch lợi dụng được môi trường này, nó sẽ tạo nên mối nguy hiểm lớn lao cho cuộc chiến chống cộng sản tại miền Nam. Thêm vào đó, vốn có nhiều thiện cảm với các tăng sĩ qua những liên hệ trong thời kỳ hoạt động bí mật sau khi treo ấn từ quan, Tổng Thống Diệm đã dành cho Phật Giáo rất nhiều quan tâm và ưu đãi.

Ngay từ những năm đầu của chế độ, Tổng Thống Diệm đã áp dụng một chính sách đặc biệt đối với Phật Giáo nhằm giúp họ phát triển và kiện toàn tổ chức.

Thực hiện chính sách này, tại Sài Gòn, Tổng Thống Diệm đã giúp đỡ một phần tài chánh khích lệ Hội Phật Học Nam Phần do ông Mai Thọ Truyền, một cư sĩ, làm Hội Trưởng, xây cất Chùa Xá Lợi dùng làm nơi nghiên cứu, học hỏi giáo lý, mở rộng kiến thức, củng cố niềm tin nơi tín đồ Phật Giáo. (Chùa Xá Lợi được xây cất giữa năm 1958). Theo ông Phạm Minh Chiểu, cựu Phó Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị và Xã Hội Phủ Tổng Thống, hiện cư ngụ tại Thành Phố Orange County, California, thì số tiền giúp xây Chùa Xá Lợi là hai triệu đồng (2. 000. 000), được trích từ ngân quỹ của Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội Phủ Tổng Thống (Theo giá sinh hoạt tại Việt Nam khi ấy, 1 mỹ kim bằng 35 đồng bạc Việt Nam). Tôi cũng được ông Hoàng Quang Chính, Chánh Văn Phòng Sở Nghiên Cứu Chính Trị Xã Hội Phủ Tổng Thống, hiện cư ngụ tại Thành Phố Orange County, California, cho biết, chính ông là người đã đem số tiền trên đây trao cho ông Mai Thọ Truyền, người chủ trì việc xây cất Chùa Xá Lợi.

Ông Huỳnh Văn Lang nguyên Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái Quốc Gia, trong hồi ký Nhân Chứng Một Chế Độ kể lại rằng, về thời gian ông không còn nhớ chính xác nhưng sự việc thì rõ ràng. Khoảng năm 1959-1960 Thượng Tọa Thích Tâm Giác đứng tên chúng với bà Đức Âm, nhạc mẫu của ông Lang, xin mua khu đất của Nha Thương Cảng thuộc Bộ Tài Chánh, bên bờ lạch sát đầu Cầu Công Lý để xây Chùa. Lô đất rộng trên dưới một mẫu tây đang được dân chúng xung quanh trồng rau muống. Ông Bộ Trưởng Tài Chánh không dám quyết định, đưa ra trình trước Hội Đồng Tối Cao Tiền Tệ do Tổng Thống chủ tọa. Trong buổi họp, ông Huỳnh Văn Lang, Tổng Thư Ký Hội Đồng, đề nghị xin Tổng Thống Diệm chấp thuận để họ xây Chùa. Và ông ghi lại:

"Không ngần ngại một chút, ông Diệm cho chỉ thị ngay:

- Làm Chùa thì cho ngay đi.

Và ngay sau buổi họp, Bộ Tài Chánh đã làm giấy bán lô đất cho Thượng Tọa Thích Tâm Giác và bà Đức Âm với tượng trưng một đồng bạc". (Nhân Chứng Một Chế Độ. Tập 1. Trang 463)

Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ và sát hại, Chùa Vĩnh Nghiêm đã được xây cất trên lô đất này.

Tại Huế, qua cơ sở Phật Giáo Chùa Từ Đàm mà người đại diện là Thượng Tọa Thích Trí Quang tại Chùa này, ông Ngô Đình Cẩn đã tích cựu giúp đỡ Phật Giáo phát triển bằng cách cung cấp tài chánh, vật liệu, dụng cụ, góp thêm vào việc xây cất nơi thờ tự tại một số cơ sở mới thành lập, trùng tu những Chùa miếu bị hư hại đổ nát, thực hiện đồ thờ cúng. Vấn đề tài chánh thường được cung cấp trực tiếp từ ông Cẩn và qua các ông Đại Biểu Chính Phủ hoặc Tỉnh Trưởng sở tại. Ông Nguyễn Đình Long chủ tiệm Thăng Long trên đường Phan Bội Châu Huế, đã được trúng thầu khai thác củi trong kế hoạch khai quang mật khu Hòa Mỹ của Việt Cộng, thuộc Quận Phong Điền Tỉnh Thừa Thiên, với điều kiện mỗi tháng cung cấp cho Thượng Tọa Trí Quang ba mươi ngàn đồng (30. 000). Quận Trưởng Quận Phong Điền khi ấy là ông Hoàng Ngọc Trợ, người cho đấu thầu công tác khai quang này, hiện ở San José, California.

Một điều rất đặc biệt, để có vật liệu đúc chuông cho một số Chùa mới xây cất, ông Cẩn đã yêu cầu Đại Đội Quân Cụ Quân Khu II bằng mọi cách, cung cấp vỏ đạn đồng cho Thượng Tọa Trí Quang. Công việc này thật khó khăn, vì thời kỳ ấy người Mỹ chỉ cung cấp súng đạn cho Quân Đội Việt Nam sử dụng trong công tác huấn luyện, nên việc cấp phát đạn dược rất hạn chế, kèm theo nhiều thể thức kiểm soát hết sức chặt chẽ. Tuy vậy, anh em Quân Nhân thuộc Đại Đội Quân Cụ cũng đã tìm cách thực hiện được lời yêu cầu của ông Cẩn. Hai người phụ trách công việc này là Trung Úy Ngô Văn Điều, cấp bậc sau cùng là Trung Tá, hiện cư ngụ tại Thành Phố Garden Grove, Orange County, California và Thượng Sĩ Nguyễn Hiệp, không rõ cấp bậc sau cùng, hiện ở Úc Châu. Cả hai người cùng là tín đồ Công Giáo.

Được chính quyền tích cực giúp đỡ, Phật Giáo miền Trung phát triển mạnh, có thêm nhiều cơ sở, Chùa miếu mới. Từ đó, uy tín của các vị tăng sĩ Chùa Từ Đàm, đặc biệt là Thượng Tọa Trí Quang, mỗi ngày một lớn thêm trong giới Phật Giáo. Riêng Thượng Tọa Trí Quang được mặc nhiên coi là đại diện chính thức cho cả khối Phật Giáo Miền Trung đối với chánh quyền, Thượng Tọa đã từng đến nhà ông Cẩn gặp ông nhiều lần. Ngược lại, một đôi lần ông Cẩn cũng đã lui tới thăm hỏi, dùng trai với ông và các tăng sĩ tại Chùa Từ Đàm. Vì vậy Thượng Tọa Thích Trí Quang đã được các vị Hòa Thượng, Thượng Tọa khác đặc biệt tin tưởng, kính nể. Uy tín của ông vượt trội hẳn trên các vị tăng sĩ khác.

Cuối năm 1956, hai Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh của Chùa Từ Đàm, xin phép đi dự Đại Hội Phật Giáo thế giới tổ chức tại Tích Lan. Đơn xin xuất ngoại của hai vị bị cơ quan an ninh đề nghị bác với lý do: Hồ sơ an ninh ghi hai vị có nhiều hoạt động thiên cộng.

Hai vị đã chạy đến nhờ cậy ông Ngô Đình Cẩn và ông Cẩn đã phải viết thơ riêng can thiệp với Bác Sĩ Trần Kim Tuyến. Cuối cùng hai vị đã được xuất ngoại với thông hành Công Vụ để thoát qua cửa ải "thủ tục an ninh", theo sáng kiến của ông Cao Xuân Vỹ.


GIÚP XÂY DỰNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO


Ngoài những giúp đỡ vật chất có tính cách nhất thời kể trên. Tổng Thống Diệm còn có kế hoạch lâu dài, giúp Phật Giáo Việt Nam tổ chức thành một Giáo Hội Thống Nhất. Ông khuyến khích, yểm trợ việc đào tạo cán bộ, để có nhân sự đủ khả năng xây dựng Giáo Hội Phật Giáo thành một tổ chức chặt chẽ và vững mạnh từ căn bản.

Cuối năm 1957 đầu năm 1958, các vị tăng sĩ Chùa Từ Đàm, chủ chốt là hai Thượng Tọa Trí Quang và Thiện Minh, đã nhờ ông Ưng Thuyên, soạn một bản Điều Lệ xin thành lập "Hội Phật Giáo Thống Nhất" toàn quốc. Nội dung điều lệ hoàn toàn như điều lệ của một hội đoàn thường.

Bản Điều Lệ có kèm theo đơn xin thành lập hội, được gửi lên Bộ Nội Vụ đã quá sáu tháng mà không nhận được kết quả gì. Hai Thượng Tọa Thích Trí Thủ và Thích Thiện Minh được các vị tăng sĩ Chùa Từ Đàm cử vào Sài Gòn đem theo phó bản đơn xin lập hội và điều lệ đến Quốc Hội nhờ ông Võ Như Nguyện, Chủ Tịch Ủy Ban Nội Vụ can thiệp. (Ông Nguyện hiện cư ngụ tại Thành Phố Lons, Pháp Quốc).

Tiếp hai tăng sĩ và sau khi coi qua Bản Điều Lệ, ông Võ Như Nguyện hỏi Bộ Nội Vụ thì được trả lời: Việc này còn đang cứu xét. Thấy thời gian xét đơn đã quá thời hạn luật định, ông Nguyện liền xin Tổng Thống Diệm cho hai tăng sĩ được yến kiến để đạo đạt thỉnh nguyện. Tổng Thống chấp nhận ngay và ông Nguyện đã đích thân đưa hai tăng sĩ vào Dinh Độc Lập trình diện Tổng Thống ngay sau đó.

Sau khi nghe hai tăng sĩ trình bày sự việc và nguyện vọng, Tổng Thống bảo ông Nguyện:

- Ông Nguyện qua Bộ Nội Vụ lấy hồ sơ về đây cho tôi.

Trong khi Tổng Thống còn chuyện vãn với hai tăng sĩ, ông Nguyện đem hồ sơ về trình, Tổng Thống cầm lật coi qua mấy trang rồi hỏi ông Nguyện:

- Ông Nguyện đọc chưa?

- Dạ thưa Tổng Thống tôi đọc rồi.

Không hỏi gì thêm, Tổng Thống phê Thuận ngay trước mặt hai Thượng Tọa Trí Thủ, Thiện Minh và ông Võ Như Nguyện, Hồ sơ được giao trả lại cho Bộ Nội Vụ, để làm thủ tục, rồi sau đó chuyển đạt cho Hội Phật Giáo.

Rất tiếc là hai vị nhân chứng là hai Thượng Tọa kể trên đều đã viên tịch rồi. (Lời ông Võ Như Nguyện)

Thiết tưởng cần nói thêm ở đây về việc nhóm Tranh đấu của Thượng Tọa Trí Quang đòi hủy bỏ Đạo Dụ số 10.

Đạo Dụ số 10 được Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành tháng 8 năm 1950, ấn định các thể thức phải thực hiện khi muốn thành lập một hội đoàn và các điều lệ phải tuân thủ khi hội đã được phép thành lập. Toàn văn Đạo Dụ không một chữ nào đề cập đến vấn đề tôn giáo. Ngoại trừ và duy nhất Điều 44 trong chương Tổng Tắc của Đạo Dụ ghi:

"Chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô và các Hoa Kiều Lý Sự Hội sẽ ấn định sau"

Nếu hiểu Chế Độ Đặc Biệt nói trong Điều Khoản này là dành cho một Tôn Giáo, thì không lẽ Hoa Kiều Lý Sự Hội cũng là một tôn giáo?

Ngoài ra, các hội truyền giáo tại Việt Nam đã chấm dứt nhiệm vụ từ năm 1960, khi hệ thống giáo quyền Việt Nam được thiết lập.

Người ta không khỏi thắc mắc: Thượng Tọa Trí Quang người chủ chốt trong việc xin thành lập "Hội Phật Giáo Thống Nhất", nếu thấy Đạo Dụ 10 là cách đối xử bất công với Phật Giáo, sao Thượng Tọa không xin hủy bỏ Đạo Dụ này khi Đạo Dụ mới được ban hành, hoặc khi xin thành lập "Hội Phật Giáo Thống Nhất"?

Cụ Tôn Thất Thiết, một Phật Tử thuần hành mà thân phụ là Phò Quan Quận Vương Tôn Thất Hân, người đã từng can thiệp cho Hội Chấn Hưng Phật Giáo tại miền Trung được hoạt động đầu thập niên 30, nói với tôi:

"Việc đưa ra đòi hỏi hủy bỏ Đạo Dụ 10, chỉ là kỹ thuật gây cho đồng bào Phật Giáo ấn tượng bị phân biệt đối xử để lôi cuốn họ vào cuộc tranh đấu. Đạo Dụ do Quốc Trưởng Bảo Đại ban hành từ năm 1950, nếu thấy bất công đối với Phật Giáo sao hồi đó các Thầy không phản đối xin hủy bỏ? Rồi đến thời ông Diệm, từ năm 1954 đến 1962 cũng không xin hủy bỏ, mà phải đợi đến khi tranh đấu mới đòi"?

Sau khi Hội Phật Giáo Thống Nhất được phép thành lập, theo ông Phạm Minh Chiểu, việc tổ chức Đại Hội bầu Ban Trị Sự Trung Ương đã gặp nhiều khó khăn vì sự bất hợp tác của khối Phật Giáo miền Nam. Chính quyền đã phải vất vả hòa giải, dàn xếp, Đại Hội mới thành hình và đưa đến kết quả, Hòa Thượng Thích Thịnh Khiết được bầu vào chức vụ Hội Chủ và Thượng Tọa Thích Trí Quang được giao nhiệm vụ Tổng Thư Ký. Cả hai vị đều thuộc Hội Phật Giáo Thống Nhất Thừa Thiên.

Sau khi Phật Giáo đã có tổ chức thống nhất, Tổng Thống Ngô Đình Diệm lại khuyến khích, cung cấp tài chánh cho các tăng ni ra ngoại quốc du học để mở mang kiến thức, giúp họ có khả năng và nâng cao trình độ cho hàng ngũ quý vị lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam. Sau đây là một vài trường hợp.

Trong thời gian xảy ra biến động được gọi là "Cuộc tranh đấu của Phật Giáo", sau vụ kiểm soát một số Chùa, một hôm Tổng Thống Ngô Đình Diệm đến thăm Chùa Sư Nữ tại Phú Lâm, do Sư Bà Diệu Huệ, thân mẫu nhà bác học Bửu Hội chủ trì. Sau khi được hướng dẫn đi thăm các cơ sở trong Chùa. Tổng Thống nói chuyện với các Sư Nữ về tình hình đất nước, về những rắc rối đang xảy ra giữa Phật Giáo và Chính Phủ. . . .

Tổng Thống Diệm nhắc lại những liên hệ cá nhân giữa ông với Phật Giáo, với các vị Hòa Thượng, Thượng Tọa, từ khi ông còn đang âm thầm hoạt động đấu tranh cho nền độc lập của đất nước. Thái độ đối xử và những giúp đỡ đặc biệt của ông đối với Phật Giáo từ khi về chấp chánh. . .

Các vị Sư Nữ đã bật khóc trước thái độ và những lời nói chân tình của Tổng Thống.

Cuộc nói chuyện vừa dứt thì một vị tăng sĩ tiến tới chào Tổng Thống. Và sau đây là mẫu đối thoại giữa Tổng Thống và vị tăng sĩ:

- Thầy đi học về khi mô vậy?

- Thưa Tổng Thống, con về gần ba tháng nay. Anh em chúng con (không nói rõ bao nhiêu người) hôm về đã có đến trình diện Tổng Thống.

- Học có được không?

- Dạ thưa, được Tổng Thống ưu ái cho đi du học, nên chúng con đã cố gắng để theo kịp bạn bè cùng khóa.

- Tiền bạc có đủ không?

- Dạ thưa cám ơn Tổng Thống, được Tổng Thống thương cho quá đầy đủ. Ăn uống chẳng tốn bao nhiêu, chỉ tốn tiền sách vở thôi, nên số tiền Tổng Thống cho rất đầy đủ.

- Học về rồi phải đem những gì đã học được, áp dụng vô trong tổ chức của mình, từ tổ chức đến việc đào tạo cán bộ. Tôi nghĩ bên Phật Giáo nên chủ trương như bên Công Giáo, nghĩa là phải đi tu từ 9, 10 tuổi đến 30 tuổi mới thành một Linh Mục. Có như thế mới chọn lựa được kỹ càng cả về đạo đức và học vấn. Bên Công Giáo lúc sau ni có thâu nhận thanh niên vào học lên Linh Mục sau khi đã đậu tú tài. Nhưng cách đó xem ra chọn lựa không được kỹ càng bằng lớp bắt đầu đi tu từ nhỏ.

Nói đến đây, Tổng Thống bảo vị tăng sĩ:

- Thôi cố gắng làm việc tử tế.

Thiếu Tá Phạm Tường, Giám Đốc Nha Công An Cảnh Sát Cao Nguyên Trung Phần, định cư tại Thành Phố Boston, Tiểu Bang Massachusetts, Hoa Kỳ (mới mất hồi trung tuần tháng 12. 2002) và Đại Úy Lê Châu Lộc, Sĩ Quan Tùy Viên, là những người đã có mặt trong cuộc thăm viếng trên đây của Tổng Thống Diệm.

Tổng Thống Ngô Đình Diệm không những chỉ nâng đỡ Phật Giáo trong nước, mà bất cứ ai, bất kỳ ở đâu, khi niềm tin tôn giáo của họ bị chà đạp, ông đều tự thấy có bổn phận phải nâng đỡ họ.

Tôi được Thượng Nghị Sĩ Lê Châu Lộc, nguyên Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống Diệm, hiện định cư tại Hoa Kỳ, kể lại:

"Năm 1959, sau khi đắc cử Tổng Thống nhiệm kỳ hai. Ba ngày sau khi có kết quả bầu cử, Tổng Thống gọi tôi (Đại Úy Lộc) và Đại Úy Nguyễn Bằng (Sĩ Quan Cận Vệ), đi theo. Tổng Thống đến các Chùa trong khu vực nội và ngoại thành Sài Gòn để cám ơn khối Phật Giáo đã ủng hộ ông. Tại một ngôi Chùa nọ, khi tiếp đón Tổng Thống, Thượng Tọa trụ trì đã trách ông rằng:

- Tổng Thống có chuyện vui mà không cho anh em chúng tôi biết để chúng tôi được cùng chung vui với Tổng Thống.

Tổng Thống trả lời:

- Có chuyện chi vui mà tôi giấu các Thày mô?

- Dạ, thưa Tổng Thống, qua Tăng Đoàn Tích Lan, chúng tôi được biết, Tổng Thống đã tặng Đức Đạt Lai Lạt Ma một số tiền lớn.

Nghe vậy, Tổng Thống hơi đỏ mặt, ngồi lặng thinh một lúc, rồi nói:

- Vì là một việc tế nhị, tôi không muốn cho ai biết, chứ không phải có ý giấu các Thầy. Tôi có nhận được giải thưởng Leadership Magsaysay 10.000 đô la. Tôi thì không có nhu cầu chi. Gặp lúc Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh tụ và là biểu tượng của tinh thần tranh đấu bất khuất để bảo vệ niềm tin, bảo vệ tôn giáo, bảo vệ dân tộc ngài, đang gặp hoạn nạn, phải sống lưu vong, cần nhiều sự giúp đỡ. Tôi thấy mình có bổn phận phải giúp ngài. Tôi có nhờ Thủ Tướng Nerhu chuyển số tiền này cho ngài, nhưng ông khước từ, có lẽ ông ngại mất lòng Trung cộng, nên tôi đã phải tìm đường khác chuyển số tiền cho ngài.

Các Thầy cũng biết, mình đang phải chiến đấu chống lại một chủ nghĩa vô thần rất tàn bạo. Chỉ có niềm tin tôn giáo mới có đủ sức mạnh chống lại được với chủ nghĩa tai hại này. Vì thế, đối với việc phát huy, củng cố, bảo vệ niềm tin tôn giáo, bất câu là tôn giáo nào, mình cũng có bổn phận phải khuyến khích và giúp đỡ.

Chuyện trên đây, Thượng Tọa, nay là Hòa Thượng Thích Quảng Liên biết rõ. Vì khi Tổng Thống đến, các vị tăng sĩ đứng sắp hàng hai bên đường vào Chùa đón Tổng Thống. Khi đi ngang qua Thượng Tọa Thích Quảng Liên, Tổng Thống dừng lại hỏi:

- Thầy về khi mô?

- Dạ, con mới về, chưa kịp vào chào Tổng Thống.

- Không sao. Khi mô Thầy muốn vô, nói Sĩ Quan này (Đại Úy Lộc) sắp xếp cho vô.

Mấy ngày sau Thầy Quảng Liên đã đến nhờ tôi (Đại Úy Lộc) hướng dẫn vào yết kiến Tổng Thống.

Sự việc trên đây cũng được ông Huỳnh Văn Lang ghi lại trong Nhân Chứng Một Chế Độ, tập ba, nơi trang 151 như sau:

"Chế độ Ngô Đình Diệm theo như tôi biết không bao giờ có kỳ thị tôn giáo, không bao giờ bắt ép người vô đạo, không bao giờ chủ trương giết hại Phật Tử. Sau đây là một tỷ dụ mà các Thầy Thích Thiện Minh, Thích Thiện Hòa, Thích Quảng Liên có biết. Năm 1959, Tổng Thống Diệm có được giải thưởng Leadership Magsaysay, một ngân phiếu là 15.000 US, vì là có vấn đề hối đoái, nên đã hỏi tôi phải làm sao? Tôi đề nghị: Đặc biệt Viện Hối Đoái cho phép Tổng Thống mở một trương mục gọi là Compte Etranger ở Việt Nam Thương Tín hay Ngân Hàng nào khác cũng được, để khi nào Tổng Thống dùng hay chuyển cho ai cũng được, khỏi phải chuyển qua chuyển lại mất công giấy tờ lâu lắc và vô ích. Và sau đó Tổng Thống Diệm có cho tôi biết là đã gửi qua New Delhi, bảo ông Đỗ Vạn Lý đang làm Tổng Lãnh Sự, tìm thế gửi tặng Đức DaLai Lama Tây Tạng, đang tỵ nạn ở Ấn Độ. Cái nghĩa cử đó có chứng minh rằng ông Diệm không có kỳ thị tôn giáo chăng? Ngoài ra ông Diệm cũng đã có trợ giúp một hai Đại Đức đi tu học qua Gia Nã Đại, có thể Thầy Thích Quảng Liên biết rõ điều đó, tôi cũng biết, vì có vấn đề hối đoái hay là chuyển ngân".

PN99
03-12-2009, 19:00
Chương 2.2



TẠI SAO CÓ QUI ĐỊNH THỂ THỨC
TREO GIÁO KỲ VÀ CỜ HỘI ĐOÀN?


Ngay từ những năm đầu của chế độ, mỗi lần đến thăm các khu định cư của đồng bào theo đạo Công Giáo, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đều thấy họ dùng cờ Vatican để trang trí dọc những con đường ông đi qua và nơi ông đến. Tổng Thống đã chỉ thị Bộ Nội Vụ ra Nghị Định và sau đó, chính ông ban hành Sắc Lệnh ấn định thể thức treo Quốc Kỳ và các cờ Hội Đoàn, nhằm biểu lộ sự tôn kính đối với Quốc Kỳ.

Trong tác phẩm Ngô Đình Diệm và Nỗ Lực Hòa Bình Dang Dở viết bằng tiếng Pháp, Nguyễn Vy Khanh chuyển ngữ, tác giả cựu Trung Tá Nguyễn Văn Châu, Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý Bộ Quốc Phòng từ 1956 đến 1962 viết:

"Nghị định do Phủ Tổng Thống ban hành vào ngày 6 tháng 5. 1963 nhắc nhở lại những biện pháp đã được quy định vào năm 1957 và 1958 về việc treo cờ của Giáo Hội"

Phần chú thích ghi:

‘’Các Nghị Định của Bộ Nội Vụ số 78/NV/NA/85, tháng 9 năm 1957 và số 189/BNV/NA/PS ngày 12 tháng 5 năm 1958"(sđd. Trang 216)

Khi tiếp kiến Phái Đoàn Tìm Hiểu Sự Việc của Liên Hiệp Quốc, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã xác minh:

". . . trong một Sắc Lệnh năm trước đã ấn định thể thức treo cờ của tất cả các tôn giáo trong những buổi lễ lược ngoài trời" (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 50)

Sắc Lệnh ấn định thể thức treo Quốc Kỳ và Giáo Kỳ trong những ngày lễ lớn của các tôn giáo được Tổng Thống Diệm đề cập trên đây, nếu tôi nhớ không lầm, được ban hành vào đầu năm 1962, hơn một năm trước ngày Lễ Phật Đản năm 1963.

Như vậy, rõ ràng là thể thức treo Giáo Kỳ và cờ các Hội Đoàn đối với Quốc Kỳ, trước tiên được quy định bởi Nghị Định của Bộ Nội Vụ, sau đó, bởi Sắc Lệnh do chính Tổng Thống ký ban hành.

Nói cách khác, cờ các tôn giáo, cờ các hội đoàn, được treo trong các ngày lễ của những tổ chức này. Nhưng phải treo theo thể thức đã được quy định để biểu thị sự tôn trọng Quốc Kỳ là biểu tượng của Quốc Gia.

Một vấn đề được nêu lên: Thể thức treo cờ các tôn giáo và hội đoàn đối với Quốc Kỳ đã được quy định từ năm 1957 và được nhắc lại năm 1958 bằng Nghị Định của Bộ Nội Vụ. Vậy tại sao đến đầu năm 1962 Tổng Thống Diệm còn đích thân ban hành Sắc Lệnh về vấn đề này?

Sau đây là nguyên nhân việc ban hành Sắc Lệnh nói trên:

Tại vùng Cao Nguyên Ban Mê Thuột có một khu đồi rất đẹp được gọi là Đồi Mai, vì đây là khu mọc toàn mai rừng. Mỗi độ Tết đến, mai vàng nở rực cả một vùng trời. Khu đồi lại có độ cao có thể nhìn bao quát một vùng rộng lớn của Cao Nguyên Ban Mê Thuột đến tận hồ Lark, một thắng cảnh nổi danh của vùng Cao Nguyên Trung Phần. Dưới chân đồi là hai xứ đạo di cư. Xứ Giang Sơn do Linh Mục Phạm Hữu Nghị trông coi, (Cha Nghị bị chính quyền cộng sản xử bắn năm 1978 trong vụ Nhà Thờ Vinh Sơn) và Xứ Kim Long do Linh Mục Võ Quốc Ngữ cai quản. Hai Giáo Xứ hiệp lực kiến thiết khu đồi này thành một địa điểm hành hương với tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn cao gần 5 thước và 14 chặng đàng Thánh Giá.

Tôi được cựu Thiếu Tá Phạm Tường, Giám Đốc Nha Công An Cảnh Sát Cao Nguyên Trung Phần kể lại: Tháng 5. 1961, công trình xây dựng địa điểm hành hương trên đây hoàn tất. Muốn cho cuộc lễ khánh thành được thêm phần long trọng, Cha Nghị đã nhờ Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 23 Bộ Binh và ông (Tường), về Sài Gòn mời Tổng Thống lên chủ tọa.

Vì bận công vụ, Tổng Thống cử ông Bộ Trưởng Canh Nông đại diện, và dặn đem theo chuyên viên quay phim cuộc lễ đem về cho Tổng Thống coi.

Một buổi tối coi phim cuộc lễ khánh thành cùng với số viên chức thân cận, Bí Thư, Chánh Văn Phòng, Tùy viên. . . thấy cờ Vatican được treo quá nhiều trong khi Quốc Kỳ thì hầu như không có, Tổng Thống liền chỉ thị: Viết ngay một văn thư ấn định rõ ràng thể thức treo Giáo Kỳ. . . Nhưng có lẽ sau một ngày mệt nhọc, dịp này viên chức trách nhiệm đã quên thi hành khẩu lệnh của Tổng Thống Sĩ Quan Tùy Viên của Tổng Thống có mặt trong buổi coi phim này là Đại Úy Lê Châu Lộc hiện định cư tại Hoa Kỳ. (Thời Đệ II Cộng Hòa Đại Úy Lộc là Thượng Nghị Sĩ)

Tháng 8 năm 1961 ra dự lễ cung hiến Vương Cung Thánh Đường La Vang, Tổng Thống Diệm thấy cảnh cờ Vatican vẫn treo quá nhiều trong khi chỉ có một lá Quốc Kỳ treo trước cửa Nhà Thờ. Trở về Sài Gòn, ông đã chỉ thị soạn tháo ngay một Sắc Lệnh quy định đầy đủ, chi tiết hơn, về cách thức treo Quốc Kỳ và cờ tôn giáo, hội đoàn trong các ngày lễ, hội của tôn giáo, hội đoàn, khích thước phải dùng cho Quốc Kỳ, Giáo Kỳ, cờ các hội đoàn v. v. . . Sắc Lệnh được ban hành vào đầu năm 1962.

Mặc dầu việc phải tôn trọng Quốc Kỳ trong các cuộc lễ tôn giáo đã được nhắc nhở ngay từ những năm đầu của chế độ Đệ I Cộng Hòa (1957, 1958) bằng Nghị Định của Bộ Nội Vụ, và đến năm 1962 bằng chính Sắc Lệnh của Tổng Thống. Nhưng điều đáng buồn là, dân tộc Việt Nam sau cả ngàn năm bị ngoại bang thống trị, không những chỉ dân chúng, mà ngay cả đến trong hàng ngũ giới trí thức, giới lãnh đạo các tôn giáo, đoàn thể, không còn mấy ai ý thức được lòng tự trọng dân tộc, niềm kiêu hãnh của một đất nước thực sự Độc Lập và có chủ quyền qua biểu tượng lá Quốc Kỳ. Bởi thế, các viên chức cũng như cơ quan hữu trách đã không ý thức được tầm quan trọng của các Nghị Định và Sắc Lệnh nói trên. Việc phổ biến, học tập về những quy định này đã không được thực hiện đúng mức, nên ý thức tôn trọng Quốc Kỳ vẫn chưa có được trong đầu óc người dân.

Ngược lại, quan niệm số lượng cờ được găng mắc trong các dịp lễ lược, kỷ niệm, là biểu tượng sức mạnh của tôn giáo, của đoàn thể mình vẫn còn in sâu trong tâm khảm họ. Vì vậy mà trong các dịp này họ vẫn hành động theo thói quen từ lâu đời, chỉ treo cờ tôn giáo hặc hội đoàn mình.

Một trường hợp điển hình:

Tháng 6 năm 1962, Dòng Chúa Cứu Thế ở Huế tổ chức cuộc rước kiệu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp rất trọng thể. Đoàn kiệu xuất phát từ Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế được rước đi ngang qua các Đường: Khải Định, Hàm Nghi, Trần Cao Vân, Duy Tân về tập trung tại sân vận động của Nhà Dòng trên Đường Khải Định. Theo thói quen như từ trước, khắp nơi quanh Nhà Thờ, trong khuôn viên, tại lễ đài, nhà giáo dân, suốt dọc lộ trình đoàn rước đi qua, chỗ nào cũng treo cờ Vatican, mặc dù Sắc Lệnh quy định thể thức treo Quốc và Giáo Kỳ mới được ban hành cách đó mấy tháng.

Được biết tình trạng này, Đức Giám Mục Ngô Đình Thục đã yêu cầu chính quyền và Nhà Dòng phải cho hạ ngay mọi lá cờ Vatican treo không đúng quy định. Ty Cảnh Sát Huế đã phái nhân viên phối hợp với Ban Tổ Chức cuộc kiện đi hạ cờ theo yêu cầu của Đức Cha Thục.

Một số người đã tham gia việc hạ cờ Vatican treo sai quy định trên đây hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông Hoàng Ngọc Trợ ở San José, California, ông Hồ Đắc Trọng ở Thành Phố Gradena, California.

Đến cuối năm, tháng 9 hay tháng 10, tôi không nhớ chính xác, Họ Đạo Dòng Chúa Cứu Thế làm lễ khánh thành ngôi Nhà Thờ mới. Qua kinh nghiệm trong cuộc rước kiệu kể trên, nhà giáo dân trong Họ Đạo không treo cờ Vatican, nhưng trong khuôn viên và chung quanh Nhà Thờ vẫn còn treo nhiều cờ sai quy định. Một lần nữa Đức Cha Thục lại can thiệp và Ngài cho biết chỉ đến làm phép Nhà Thờ khi việc hạ cờ treo sai quy định hoàn tất. Một Thày Dòng từ Sài Gòn ra dự lễ khánh thành Nhà Thờ đã tham gia việc hạ cờ Vatican treo sai quy định lần này là Thày Edmond, hiện ở Nhà Dòng Chúa Cứu Thế Long beach.

Tiếc rằng khi "Biến cố cờ Phật Giáo" bùng nổ, Đức Cha Thục đã có phản ứng quá nóng nảy trong lời nói khi phát biểu về một vài vị lãnh đạo phong trào tranh đấu, cũng như đã có một số hành động đối kháng phong trào này. Mặc dầu một số Linh Mục uy tín trong Giáo Phận Huế thời bấy giờ, trong đó có cố Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận và ông Ngô Đình Cẩn cố gắng can ngăn.

Hành động quá nóng nảy của Đức Cha Thục đã làm lu mờ tinh thần thượng tôn pháp luật của Đức Cha trong quyết định bắt hạ cờ Vatican tại Họ Đạo Dòng Chúa Cứu thế Huế. Hành động này làm cho người bàng quan dễ tin vào những người xuyên tạc, cố tình diễn giải sai lạc chỉ thị của Tổng Thống Diệm nhắc phải treo cờ tôn giáo theo quy định mà vì lý do bí ẩn nào đó, viên chức thừa hành đã để đến sát ngày Lễ Phật Đản mới phổ biến. Trong khi chỉ thị này đã được Tổng Thống ban ra trước đó hơn hai tháng. Tệ hại hơn, hành động của Đức Cha Thục còn đáp ứng đúng điều ước mong thầm kín, nếu không muốn nói là mưu độc của Thượng Tọa Trí Quang và nhóm tranh đấu quá khích. Họ đang cố tìm kiếm dữ kiện khả dĩ chứng minh tính cách chính đáng cho hành động của họ và khơi nguồn cho sự đố kỵ Công Giáo-Phật Giáo. Vì vậy họ đã nắm bắt ngay những sự việc do Đức Cha Thục tạo ra, diễn dịch theo cung cách của họ để làm bằng chứng cho một tinh thần kỳ thị, khích động lòng tự ái tôn giáo để lôi cuốn giới lãnh đạo và đồng bào Phật Giáo nhập cuộc. Đồng thời, với sự hỗ trợ của một số cơ quan truyền thông Hoa Kỳ, họ triệt để khai thác những dữ kiện ấy để che đậy kín đáo hơn các thế lực đứng sau lưng họ, và mục đích thật của cuộc đấu tranh được họ phát động dưới "danh nghĩa Phật Giáo". Mục đích này, sau khi đã huy động được một khối tín đồ đáng kể tham gia phong trào và tranh thủ được dư luận bên ngoài ủng hộ cuộc tranh đấu, Thượng Tọa Trí Quang đã không ngần ngại nói thẳng với nữ phóng viên Marguerite Higgins: "Chúng tôi không thể dàn xếp được với Bắc Việt cho đến khi trừ khử được Diệm và Nhu". (Our Vietnam Nightmare. Trang 28)

Quyết định bắt hạ cờ Vatican trong cuộc kiệu của Họ Đạo Dòng Chúa Cứu Thế Huế và dịp lễ khánh thành ngôi Nhà Thờ mới cũng tại Họ Đạo này, có thể chứng minh rằng những phản ứng nóng nảy của Đức Cha Thục trong biến cố cờ Phật Giáo, cũng tại Huế, không phải do tinh thần kỳ thị tôn giáo. Vậy thì do đâu Đức Cha Thục lại có những phản ứng tai hại như thế?

Theo tôi, những yếu tố: Tinh thần đoàn kết hỗ trợ nhau của anh em chị em Tổng Thống Diệm trong công cuộc tranh đấu cho nền độc lập và quyền lợi đất nước theo lời trăn trối của thân phụ, như tôi đã kể trong mục "Con Người" ông Ngô Đình Cẩn. Lòng tự ái gia tộc trong một con người từng được bạn bè Năm Châu nhìn nhận là thông minh xuất chúng và từ thời thơ ấu đã quen sống trong một khuôn khổ kỷ luật chặt chẽ. Tính nóng nảy, ngay thật đến ngây thơ, cư xử vụng về. Đó là những động lực đã thúc đẩy Đức Cha Thục hành động một cách thiếu suy nghĩ và vô chính trị như vậy.

PN99
03-12-2009, 19:25
Chương 2.3


LÝ DO CÓ CÔNG ĐIỆN NHẮC TREO CỜ THEO QUY ĐỊNH
DỊP LỄ PHẬT ĐẢN NĂM 1963


Ông Dương Văn Hiếu, Phụ Tá Cảnh Sát Đặc Biệt Tổng Nha Công An Cảnh Sát thời Đệ Nhị Công Hòa, nguyên Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung kể lại với tôi:

"Khoảng mười ngày sau khi xảy ra tai nạn tại Đài Phát Thanh Huế, tôi vào trình Tổng Thống một số công việc liên quan đến tình hình lúc ấy. Tổng Thống với vẻ mặt hết sức buồn phiền kể lại rằng:

Tháng 3 mới rồi tôi đi thăm Khu Dinh Điền Vị Thanh, khi đi ngang một ngôi Chùa, cờ Phật Giáo treo trên cột cao giữa sân chùa, còn cờ Quốc gia bằng giấy, chỉ bằng chừng ni (vừa nói Tổng Thống vừa xòe bàn tay ra), dán trên trụ cột ngoài cổng chùa. Như rứa thì còn chi là thể thống Quốc Gia.

Khi về, tôi cho mời Đức Khâm Mạng Tòa Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai vị Phó Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam) vô cho biết tình trạng như rứa, và yêu cầu lưu ý các giáo dân phải tôn trọng cờ Quốc Gia. Mỗi khi có lễ lược phải treo cờ tôn giáo của mình theo thể thức đã được quy định để biểu lộ sự tôn trọng đối với cờ Quốc Gia. Đức Khâm Sứ có thưa lại, Ngài nhận thấy bên Công Giáo thiếu hướng dẫn cho các giáo dân, nên lầm tưởng cờ của Quốc Gia Vatican là cờ của Tòa Thánh. Giáo Hội Công Giáo không có cờ riêng. Ngài hứa sẽ lưu ý Hội Đồng Giám Mục Việt Nam vấn đề nớ, yêu cầu giải thích cho giáo dân biết, phải tôn trọng các quy định của Chính Phủ đối với Quốc Kỳ của nước Việt Nam trong các ngày lễ, khi muốn treo cờ Vatican. Ông Mai Thọ Truyền cũng thưa rằng, sẽ làm như bên Công Giáo.

Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gửi công điện nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm cản chi mô! Không hiểu tại răng hắn để ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy ra chuyện tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi thì ích chi?"

Trên đây là lý do đưa đến việc một lần nữa, Tổng Thống Diệm chỉ thị nhắc lại việc áp dụng thể thức treo cờ tôn giáo, hội đoàn đối với Quốc Kỳ trong các ngày lễ.

Và dưới đây là nguyên văn Công Điện số 9159 đề ngày 6. 5. 1963 nhắc việc phải treo cờ Quốc Kỳ tại các nơi thờ tự:

Văn Phòng Phủ Tổng Thống trân trọng chuyển đến Quý Ông chỉ thị sau đây của Tổng Thống.

Ra chỉ thị cho các cơ quan phụng tự bất câu tôn giáo nào trên các cơ sở phụng tự (Nhà Thờ, Chùa chiền. . . ) chỉ treo cờ Quốc Gia mà thôi. Chính Phủ đã hỏi các tổ chức tôn giáo đều đồng ý là con dân trong một nước chỉ treo cờ Quốc gia. Sự treo cờ, ảnh ở phía trong thì tùy nghi. (thường thì treo ảnh, có khi dán ảnh trên bức vải như lá cờ cũng có, ở các nước, dẫu phía trong nơi phụng tự, người ta cũng treo cờ Quốc Gia) Lúc trước có khi vì muốn tránh treo cờ hiệu gì khác. Nước nhà độc lập nên chỉ treo cờ Quốc gia. Các nhà tự cũng vậy. Trân Trọng.

Còn tại sao ông Quách Tòng Đức để đến trước ngày Lễ Phật Đản mới gửi công điện thì, theo nhận xét của Tướng Tôn Thất Đính:

"Tổng Thống chỉ ra khẩu lệnh. Có nghĩa là không có tính cách gấp rút, thượng khẩn hay hỏa tốc gì cả. Tự tay Tổng Thống không viết, không ký một bản văn nào. . . Theo tôi biết, ông rất cẩn thận ngay trong từng lời phê trong các văn kiện và rất chậm, đôi khi quá chậm vì suy nghĩ trước khi ban hành bất cứ một lệnh nào". Và "việc làm hết sức bất thường mà từ trước chưa bao giờ xảy ra là, ông Đức đã gởi đi một Công Điện quan trọng như vậy mà không tham khảo ý kiến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu".

Và ông Đính nêu lên nghi vấn: Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một Công Điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ tổ chức? (20 Năm Binh Nghiệp. Trang 307)

PN99
03-12-2009, 19:28
Chương 2.4


LỆNH CẤM TREO CỜ PHẬT GIÁO?



Biến động được gọi là "Cuộc tranh đấu của Phật Giáo", chống lại "Chính sách kỳ thị tôn giáo" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, được khởi động ngày 7 tháng 5 năm 1963 từ Huế, trước Lễ Phật Đản một ngày. Với lý do: Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh cấm treo cờ Phật Giáo ngày Lễ Phật Đản, ngày 8 tháng 5 năm ấy.

Trước khi thuận lại diễn biến của biến động này, tôi thấy cần phải nói về những lý do được nhóm Tranh đấu của Thượng Tọa Trí Quang nêu lên để phát động vụ nổi lên chống cái mà họ gọi là "lệnh cấm treo cờ Phật Giáo". Vì những lý do này đã được một số báo chí, tài liệu ngoại quốc và hồi ký của mấy giới chức Việt Nam tường thuật lại, khi đề cập đến "vụ Phật Giáo"năm 1963:

Thứ Nhất: Vì Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, bào huynh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, tham vọng lên chức Hồng Y đã bắt Tổng Thống Diệm ra lệnh này.

Thứ Hai: Vì chỉ trước đó 2 ngày, tức ngày 5 tháng 5 Lễ Ngân Khánh Giám Mục của Đức Cha Thục được tổ chức trọng thể, cờ Vatican được treo khắp Thành Phố Huế xuống đến tận vùng Vỹ Dạ, ngoại ô Thành Phố.

Các tài liệu, sách báo, hồi ký kể trên nói rằng, những điều đó làm cho các nhà lãnh đạo Phật Giáo bất bình và coi đó là sự đối xử bất công của Tổng Thống Diệm đối với Phật Giáo.

Về lý do thứ nhất. Không ai có thể quyết đoán một điều mà nếu có, cũng chỉ có trong thâm tâm của Đức Cha Thục. Đó là điều Đức Cha Thục tham vọng lên chức Hồng Y. Hơn nữa, với Giáo Hội Công Giáo, số lượng giáo dân trong tổng số dân sinh sống trong địa hạt của Giáo Phận, không phải là điều kiện bắt buộc phải có để vị Giám Mục của Giáo Phận ấy được nâng lên hàng Hồng Y.

Vì lý do thứ hai: Lý do này hoàn toàn không đúng sự thật. Vì đúng ngày Đức Cha Thục thụ phong Giám Mục được 25 năm, ngày 4 (không phải ngày 5) tháng 5 năm 1963, Lễ Ngân Khánh của Ngài được tổ chức tại Trường Đại Học Đà Lạt chứ không phải tại Huế. Lễ này được tổ chức tại Huế vào ngày Lễ kính Thánh Phêrô, Thánh bổn mạng của Ngài, ngày 24 tháng 6. Vì tình hình lúc ấy, Ngài đã không cho Giáo Phận Huế đứng ra tổ chức lễ. Cuộc lễ được số Linh Mục giáo dân phục vụ trong Tòa Tổng Giám Mục tổ chức và chỉ dành cho các Linh Mục, Tu Sĩ trong Giáo Phận tham dự lễ mừng Đức Cha. Một trong số những giáo dân phục vụ tại Tòa Giám Mục, ở trong Ban Tổ Chức lễ ngày 24. 6 là ông Hoàng Ngọc Trợ, hiện định cư tại San Jose, California.

Thượng Tọa Trí Quang đã đưa ra hai lý do nêu trên để phát động cuộc tranh đấu. Nhưng Giáo Sư Nguyễn Văn Trung Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước 1975, trong bài viết về ông Ngô Đình Cẩn đã tiết lộ phát biểu của Thượng Tọa Trí Quang về "vụ Phật Giáo" như sau:

". . . bài Hòa Thượng Thích Trí Quang ký thác tâm sự với tôi (Giáo Sư Trung) khẳng định các ông Diệm, Nhu, nhất là ông Cẩn, trừ ông Thục, không trách nhiệm gì trong việc gây ra vụ Phật Giáo".

Nhưng trong Tiểu thuyết tự ghi nói về vụ Phật Giáo, tập san giao điểm số 26. 4. 1997, Hòa Thượng Trí Quang lại ghi:

" Ông Ngô Đình Diệm muốn thiên chúa giáo của ông độc tôn, muốn anh của ông là Ngô Đình Thục là hồng y giáo chủ nên ông kỳ thị đàn áp phật giáo".

DIỄN BIẾN CUỘC TRANH ĐẤU CHỐNG "LỆNH CẤM TREO CỜ"

Như mọi năm trước dưới thời Đệ I Cộng Hòa, đồng bào Phật Giáo trong Thành Phố Huế cũng như mọi nơi, chuẩn bị mừng Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8. 5. 1963) rất náo nhiệt. Cờ Phật Giáo tung bay khắp nơi từ cả tuần lễ trước một cách rất yên ổn. Không có triệu chứng gì báo hiệu lá cờ này sẽ là nguyên nhân gây ra một biến cố làm rung động dư luận trong, ngoài nước, tạo ra hàng chuỗi biến động khác kéo dài ròng rã suốt ba năm trời. Và từ đó, lịch sử đất nước đã lật qua một trang được viết bằng không biết bao nhiêu là máu và nước mắt cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.


NGÀY 7 THÁNG 5 NĂM 1963

Sáng ngày 7. 5. 1963, tôi đang sử soạn đến văn phòng làm việc thì vợ tôi từ dưới nhà bếp lên hỏi:

- Sao lại có lệnh cấm treo cờ Phật Giáo ngày mai hả anh?

- Làm gì có chuyện kỳ cục như vậy!

- O (tiếng miền Trung có nghĩa là cô, bà cô) vừa đi chợ về nói, ngoài chợ họ đang rỉ tai rủ nhau chiều nay đi biểu tình, phản đối lệnh cấm treo cờ Phật Giáo ngày mai đấy!

Tôi hết sức ngạc nhiên tự nghĩ, làm sao lại có thể có chuyện kỳ cục như vậy được. Tôi nói với vợ tôi:

- Không có đâu, làm sao lại có chuyện kỳ cục như vậy được.

Tuy nói thế, nhưng trong đầu tôi vẫn thắc mắc: Nếu không có, thì tại sao lại có người dám đi rỉ tai kêu gọi biểu tình như vậy?

Trên đường đến văn phòng, tôi vào thẳng nhà ông Cẩn và hỏi ông:

- Thưa Cậu, có phải có lệnh cấm treo cờ Phật Giáo ngày Phật Đản không?

Ông tỏ vẻ ngạc nhiên nói:

- Chỉ có điện nhắc phải treo cờ theo quy định chứ mần chi có chuyện cấm!

- Thưa Cậu, mới tức thì, bà giúp việc ở nhà con đi chợ về nói, ngoài chợ có người đi rỉ tai kêu gọi chiều nay đi biểu tình chống "Lệnh Cấm Treo Cờ Phật Giáo".

Ông Cẩn nói lầm rầm như chỉ để cho một mình ông nghe:

- Răng kỳ vậy?

Và ông kêu Đại Úy Tôn Thất Độ, Trưởng Toán An Ninh, bảo mời ông Tỉnh Trưởng vào gặp ông gấp.

Chừng mười lăm phút sau, ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đảng bước vào, ông Cẩn hỏi:

- Ngoài chợ có người đang đi phao tin có lệnh cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Lễ Phật Đản, và kêu gọi dân chúng chiều nay đi biểu tình chống chuyện nớ, chú có nghe chi không?

- Dạ thưa Cố Vấn tôi không nghe chi hết.

- Chú về cho xe Thông Tin đi loan báo ngay, yêu cầu đồng bào Phật Tử treo cờ mừng ngày Phật Đản như mọi năm, không có cấm cản chi hết. Rồi chú lên nói với ông Khương, (ông Hồ Đắc Khương Đại Biểu Chính Phủ) hai anh em gặp các Thầy trên Chùa Từ Đàm, tìm cách giải tỏa nguồn tin thất thiệt này ngay đi, kẻo sinh chuyện lớn đấy.

Và như thấy trước chuyện gì, ông nói tiếp:

- Chú cùng với ông Khương nên thảo luận trước với Thượng Tọa Trí Quang về bài diễn văn ông ấy đọc trong buổi lễ sáng mai.

Lời yêu cầu của ông Cẩn đã được nhanh chóng thực hiện. Ngay buổi sáng hôm ấy, xe phóng thanh của Ty Thông Tin đi vòng khắp Thành Phố, loan báo cho dân chúng biết không có lệnh cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Lễ Phật Đản, và yêu cầu đồng bào Phật Tử cứ treo cờ như những năm trước. Hai ông, Đại Biểu Chính Phủ và Tỉnh Trưởng, đã thảo luận với Thượng Tọa Trí Quang về bài diễn văn Thượng Tọa sẽ đọc khai mạc buổi lễ sáng hôm sau. Đồng thời cho Đài Phát Thanh Huế ghi âm sẵn để phát lại trong chương trình phóng sự sẽ được truyền thanh vào tối ngày lễ.

Đến khoảng 10 giờ sáng, ông Bộ Trưởng Nội Vụ Bùi Văn Lương từ Sài Gòn ra gặp các vị Hòa Thượng, Thượng Tọa tại Chùa Từ Đàm, giải thích về công điện nhắc việc treo cờ theo quy định. Và chỉ thị cho chính quyền địa phương không phải thi hành lệnh này trong dịp Lễ Phật Đản năm nay vì đã quá cận ngày lễ, mà cờ đã được dân chúng theo thói quen, treo trước cả tuần rồi.

Đến hkoảng 5 giờ chiều, một tin gây xúc động cho đồng bào Phật Tử được loan truyền rất nhanh. Phía bên Thành Nội (Tả ngạn sông Hương) thì nghe: Cảnh Sát đang đi hạ cờ Phật Giáo bên Hữu ngạn. Phía bên Chùa Từ Đàm (Hữu ngạn sông Hương) thì nghe: Cảnh Sát đã giựt bỏ cờ Phật Giáo tại một ngôi Chùa trong Thành Nội.

Tuy vậy, lúc ấy tin này cũng không gây nên sự náo động nào trong dân chúng. Ngoại trừ một nhóm khoảng gần một trăm công chức và sinh viên Viện Đại Học Huế, sau giờ làm việc buổi chiều, tập trung trước Tòa Hành Chánh Tỉnh, yêu cầu thu hồi "lệnh cấm treo cờ Phật Giáo".

Nhưng sau khi được ông Tỉnh Trưởng ra tiếp xúc, nhắc lại thông cáo đã được xe Thông Tin loan báo nhiều lần trong ngày hôm ấy. Và cho biết không hề có lệnh cho Cảnh Sát hạ cờ Phật Giáo, số công chức và sinh viên này đã tự động giải tán ra về yên ổn.

NGÀY 8 THÁNG 5

Ngày 8 tháng năm 1963 (15. 4 năm Quý Mão), Lễ Phật Đản lần thứ 2507 được cử hành một cách rất trọng thể tại Chùa Từ Đàm. Các khuôn hội trong Thành Phố Huế đều tập trung về đây dự lễ một cách êm thắm. Ngoại trừ một đám rước kiệu Phật xuất phát từ Chùa Diệu Đế, nằm trên Đường Nguyễn Văn Sâm, bên khu Gia Hội.

Để đến Chùa Từ Đàm, đoàn rước từ Chùa Diệu Đế đi qua các Đường Nguyễn Văn Sâm, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt, Nam Giao. (Chùa Từ Đàm nằm trên Đường này) Suốt lộ trình từ điểm xuất phát đến ngã ba Lý Thường Kiệt-Nam Giao, đoàn rước đi rất trật tự và trang nghiêm. Nhưng khi đến ngã ba Nam Giao, thay vì rẽ bên trái qua Đường Nam Giao để đến Chùa Từ Đàm cách chừng 300 thước, đoàn rước đi thẳng theo Đường Lý Thường Kiệt đến trước Tòa Đại Biểu Chính Phủ cách đó chừng 50 thước, dừng lại, quay qua Tòa Đại Biểu phía bên phải. Lập tức, các biểu ngữ mang nội dung: "yêu cầu Chính Phủ thi hành chính sách tôn gioá bình đẳng", "Chúng tôi không từ chối một sụ hy sinh nào", "Cờ Phật Giáo quốc tế không thể bị triệt hạ". v. v. . . được một số người trong đoàn rước giấu sẵn trong mình, rút ra và gương lên, hô to cho đoàn rước lặp lại nhiều lần. Có vài người ngoại quốc đi theo đoàn rước đưa máy ảnh lên chụp lia lịa. Trong số người ngoại quốc này có Bác Sĩ Wulff.

Xin được mở dấu ngoặc ở đây để nói qua về Bác Sĩ Wulff và một số đồng nghiệp của ông, Bác Sĩ Holterscheidt. Hai ông này ở trong đoàn ba Bác Sĩ được Chính Phủ Tây Đức đưa qua giúp giảng dạy tại Trường Đại Học Y Khoa Huế. Nếu tôi nhớ không lầm thì, một thời gian sau cuộc đảo chánh 1. 11. 1963, báo chí Sài Gòn có đăng tin: Trong một cuộc hành quân của Quân Đoàn I, một đơn vị hành quân đã bắt được tài liệu chứng minh hai ông này làm việc cho Đông Đức, và cả hai bị trục xuất khỏi Việt Nam.

Theo Phúc Trình của Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc thì nhân chứng số 42, đã khai trước Phái Đoàn rằng: "Hai Bác Sĩ luôn luôn đi sau sinh viên để thúc đẩy họ biểu tình". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 223)

Trong lúc đoàn rước dừng lại biểu tình trước Tòa Đại Biểu Chính Phủ, thì bên trong Tòa Đại Biểu, các viên chức cao cấp địa phương: Đại Biểu Chính Phủ, Tướng Tư Lệnh Vùng, Tỉnh Trưởng, Giám Đốc Công An Cảnh Sát đều có mặt, sẵn sàng để cùng đến dự lễ với tư cách Đại Diện Chính Quyền. Ông Đại Biểu Chính Phủ đã phải ra giải thích, dàn xếp hồi lâu đoàn rước mới trở lui đi đến Chùa Từ Đàm. Các khẩu hiệu, biểu ngữ họ cầm theo, được đem trương quanh lễ đài và sân chùa.

Khi đoàn rước di chuyển đến Chùa Từ Đàm, người ta thấy một số truyền đơn có nội dung chống Chính Phủ khích động lòng tự ái tôn giáo v. v. . . đã rơi rới trên mặt đường nơi họ đứng trước Tòa Đại Biểu Chính Phủ.

Tại Chùa Từ Đàm, khi mọi thành phần dự lễ đã an vị, sau một vài nghi thức mở đầu thông thường, Thượng Tọa Thích Trí Quang đọc diễn văn khai mạc buổi lễ. Nội dung bài diễn văn này hoàn toàn khác với bài đã được hai ông Đại Biểu Chính Phủ và Tỉnh Trưởng thỏa thuận với Thượng Tọa. Phần lớn nội dung bài diễn văn đã được Thượng Tọa dùng để chỉ trích nặng nề điều mà ông gọi là "Chính sách độc tài kỳ thị tôn giáo" của Chính Phủ, qua việc được ông diễn giải là mưu định triệt hạ cờ Phật Giáo. Mặc dầu vậy, Phái Đoàn Đại Diện Chính Quyền vẫn tham dự buổi lễ cho đến phút chót, không tỏ thái độ gì đối với bài diễn văn của Thượng Tọa Trí Quang. Ngoại trừ Trung Tá Giám Độc Nha Công an Cảnh Sát Trần Văn Thưởng, đã bỏ ra về.

Cuối cùng, Thượng Tọa Trí Quang đưa ra 5 yêu cầu được gọi là 5 nguyện vọng:

1. - Yêu cầu Chánh Phủ thu hồi lệnh triệt hạ cờ Phật Giáo.

2. - Phật Giáo phải được hưởng chế độ đặc biệt như các đoàn truyền giáo Thiên Chúa Giáo.

3. - Yêu cầu Chánh Phủ chấm dứt các cuộc bắt bớ và đàn áp Phật Giáo đồ.

4. - Tăng ni và Phật Tử phải được tự do hành giáo và truyền giáo.

5. - Yêu cầu Chánh Phủ bồi thường xứng đáng cho gia đình những nạn nhân trong các vụ lộn xộn vừa qua, và trừng trị nghiêm khắc kẻ chủ mưu giết hại Phật Giáo đồ.

Sau khi cuộc lễ chấm dứt, ông Đại Biểu Chính Phủ, Tướng Tư Lệnh Vùng và ông Tỉnh Trưởng vào tường trình sự việc với ông Ngô Đình Cẩn.

Tôi được biết, trong ngày hôm ấy, khi gặp ông Cẩn, Thượng Tọa Trí Quang đã giải thích rằng, bài diễn văn ông đọc buổi sáng là điều bất đắc dĩ ông phải làm, để tránh những lộn xộn có thể xảy ra trong cuộc lễ. Và ông cam kết với ông Cẩn sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa.

CUỘC RƯỚC XE HOA

Theo chương trình ngày lễ thì buổi tối có rước xe hoa và thả đèn trên sông Hương. Đoàn xe hoa tập trung tại Chùa Từ Đàm, phát xuất từ đây diễn qua các đường phố chính trong Thành Phố.

Tối hôm ấy, tôi được ông Mullen, Phó Lãnh Sự Mỹ mời dự bữa cơm tại tư thất, nhân dịp ông khoản đãi ba học sinh sắp lên đường qua Mỹ du học theo chương trình trao đổi sinh viên học sinh giữa hai Chính Phủ Việt-Mỹ. Trong ba học sinh này có một người là con trai ông Đại Biểu Chính Phủ Hồ Đắc Khương. Tham dự bữa cơm, ngoài ông Phó Lãnh Sự, chủ nhà, khách được mời có ba học sinh và tôi.

Nhà ông Phó Lãnh Sự tọa lạc trên bờ Tả ngạn sông Bến Ngự, gần Cầu Nam Giao, cách Chùa Từ Đàm chừng 200 thước đường chim bay.

Khi chúng tôi vừa khởi sự bữa ăn, khoảng 8 giờ tối, thì nghe loa phóng thanh từ Chùa Từ Đàm loan báo nhiều lần, có đoàn xe hoa từ Đà Nẵng ra diễn hành. Và yêu cầu đồng bào đang có mặt tại Chùa cũng như tại các nơi xung quanh, thay vì tập trung tại đầu Cầu Tràng Tiền trước Đài Phát Thanh đón đoàn xe từ Đà Nẵng ra.

Nghe thông báo, tôi hết sức ngạc nhiên vì không hề biết gì về chuyện có xe hoa từ Đà Nẵng ra.

Chúng tôi tiếp tục bữa ăn, nhưng trong bụng tôi cứ thắc mắc tại sao xe hoa từ Đà Nẵng lại ra cách đột ngột thế này? Trong khi tại Huế, như mọi năm, xe hoa đều do các đơn vị Quân Đội thực hiện. Năm nay có lẽ vì tình hình xảy ra ngày hôm trước và nhất là trong buổi sáng, nên cho đến chiều tối không thấy xe nào tập trung tại Chùa Từ Đàm.

Chừng hơn một tiếng đồng hồ sau, dùng cơm xong, tôi vội cáo từ ông Phó lãnh Sự ra về vì cảm thấy bồn chồn trong bụng.

Ra khỏi tư thất ông Phó Lãnh Sự, tôi đi thẳng đến Đài Phát Thanh có ý xem tình hình ra sao. Nhưng khi còn cách đài chừng 100 thước thì tất cả các ngã đường đều kẹt cứng, không sao lái xe đến gần Đài được. Tôi quay xe trở về văn phòng, tại đây đã có mặt các ông Hoàng Trọng Bá Chủ Tịch Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia Tỉnh Thừa Thiên, Nguyễn Văn Hà Phó Tỉnh Trưởng và Hồ Đắc Trọng. Chúng tôi được bộ phận an ninh khu vực Đài Phát Thanh báo về cho biết, có mấy nhà sư đem tới đài cuộn băng ghi âm bài diễn văn Thượng Tọa Trí Quang đọc khai mạc cuộc lễ buổi sáng, yêu cầu Đài cho phát trong chương trình phóng sự ngày lễ. Quản Đốc Đài, Nhạc Sĩ Ngô Ganh, không chấp thuận vì không phải là cuộn băng đã được Đài thâu âm. Bị từ chối, họ liền hô hào đám đông tiến vào chiếm Đài. Trước thái độ hung hăng của số người này và đám đông, ông Quản Đốc vội cho đóng chặt các cửa, đồng thời yêu cầu chính quyền địa phương can thiệp giải quyết tình trạng hỗn loạn phía trước. Đám đông được khích động, mỗi lúc mỗi ồn ào hơn, nhóm nhào tới cửa chính, nhóm leo lên cửa sổ, nhóm tràn lên hành lang hai bên Đài đập phá cửa sổ và hai cửa hông thông vào văn phòng đài. Có mấy người leo lên nóc Đài phất cờ kêu gọi đám đông tiến tới.

Trước lời kêu cứu của Quản Đốc Đài Phát Thanh, chính quyền địa phương phía Hánh chánh, ông Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Đảng có một số giới chức an ninh địa phương cùng đi, đến tiếp xúc với mấy nhà sư đang điều động đám đông trước Đài Phát Thanh. Đồng thời cho mời Thượng tọa Trí Quang đến giúp cùng giải quyết. Phía quân sự, vì đã gần đến giờ giới nghiêm, Thiếu Tá Đặng Sỹ Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Thừa Thiên kiêm Phó Tỉnh Trưởng Nội An, người chịu trách nhiệm an ninh tại địa phương, sau khi thảo luận với Đại Úy Nguyễn Phu (cấp bậc sau cùng là Trung Tá, hiện địch cư tại Thành Phố Oakland, California), Quân Trấn Trưởng Quân Trấn Huế kiêm Tiểu Khu Phó, đã báo cáo cho Tướng Lê Văn Nghiêm Tư Lệnh Quân Đoàn I, Vùng I Chiến Thuật ở Đà Nẵng biết về tình hình hỗn loạn đang xảy ra quanh Đài Phát Thanh. Tướng Nghiêm ra lệnh cho ông đến giờ giới nghiêm phải giải tán đám đông, và cho phép ông dùng một Trung Đội binh sĩ và Chi Đội Tuần Thám, loại Amtrack nhẹ không phải thiết giáp, của Tỉnh Đoàn Bảo An trong công tác này.

Qua sự việc xảy ra ngày hôm trước và trong cuộc lễ buổi sáng tại Chùa Từ Đàm, là một tín đồ Công Giáo, Thiếu Tá Sỹ nhận thấy việc chỉ huy một lực lượng vũ trang, mặc dầu là lực lượng bán quân sự để giải tán đám đông này quá tế nhị và nguy hiểm. Ông đã đến gặp ông Cẩn xin cho biết nên xử trí cách nào. Ông Cẩn bảo ông:

- Chú phải tuyệt đối thận trọng.

Cựu Trung Tá Nguyễn Phu, một tín đồ Phật Giáo, kể lại:

"Sau khi nhận lệnh của Tướng Nghiêm qua điện thoại tại văn phòng của tôi ở Quân Trấn, Thiếu Tá Sỹ đã tỏ ra thật sự lo ngại đối với nhiệm vụ quá tế nhị này. Ông nói với tôi, mình phải làm sao thi hành được lệnh trên mà đừng để xảy ra chuyện gì đáng tiếc. Ông đã thảo luận hết sức kỹ lưỡng với tôi, và chúng tôi đồng ý với nhau là phải làm sao tránh dùng lực lượng võ trang trong việc giải tán đám đông, dù là lực lượng bán quân sự. Để thực hiện được điều này, việc giải tán đám đông phải được thực hiện từng bước:

- Dùng loa phóng thanh kêu gọi dân chúng tự động giải tán.

- Nếu sự kêu gọi không kết quả sẽ dùng xe vòi rồng xịt nước.

- Cuối cùng nếu cả hai biện pháp trên không đem lại kết quả, mới dùng đến Trung Đội Tuần Thám của Bảo An. Và Thiếu Tá Sỹ đã phân công cho chúng tôi:

Tôi (cựu Trung Tá Phu) vừa coi Quân Trấn vừa trách nhiệm về hậu cứ của Tiểu Khu, ở lại tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu, tập họp các đơn vị chính quy của Quân Trấn kiểm tra vũ khí cẩn thận. Ông đã thận trọng dặn tôi không được dùng lực lượng này trong việc đối phó với đám biểu tình. Chỉ tự vệ trường hợp Doanh Trại Tiểu Khu bị tấn công.

- Trung Úy Nguyễn Kỳ, (một Phật Tử) Chi Đội Trưởng Chi Đội Tuần Thám đem hai xe bọc sắt và xe vòi rồng sẽ đến Đài Phát Thanh cùng với ông".

Một điều cần ghi nhận ở đây là, sau cuộc đảo chánh 1. 11. 1963, Thiếu Tá Đặng Sỹ bị đưa ra Tòa Án xét xử và bị kết án tù chung thân. Tại Tòa, Thiếu Tá Sỹ đã khai rõ ràng, ông được Tướng Lê Văn Nghiêm Tư Lệnh Quân Đoàn cung cấp xe bọc sắt, lính Bảo An, và ra lệnh cho ông giải tán đám biểu tình. Ông yêu cầu Tòa cho Tướng Nghiêm ra đối chất với ông, nhưng lời yêu cầu của ông đã không được chấp nhận.

DIỄN BIẾN TRƯỚC ĐÀI PHÁT THANH

Các sự việc xảy ra trước Đài Phát Thanh, tôi được cựu Đại Úy Phạm Văn Vệ, khi ấy là Thượng Sĩ, nhân viên Khu 11 An Ninh Quân Đội (Huế), phụ trách an ninh tại khu vực này tối hôm ấy thuận lại như sau:

"Lúc bấy giờ tôi là Trưởng Ban Công Tác Khu 11 An Ninh Quân Đội do Đại Úy Phạm Bá Thích chỉ huy, có nhiêm vụ sưu tầm tin tức các diễn biến thời sự, chính trị, về nội tình địa phương song song với các hoạt động chống cộng sản xâm lược.

Nói riêng về buổi chiều ngày 8. 5. 1963 xảy ra vụ nổ tại Đài Phát Thanh. Theo tin tức tôi và các nhân viên thuộc quyền ghi nhận qua sự chứng kiến hoặc thu thập qua cộng tác viên, tổng hợp lại thì: Buổi sáng ngày 8. 5. 1963 có cuộc thuyết phát của Thượng Tọa Thích Trí Quang tại Chùa Từ Đàm. Các Thầy muốn cho phát thanh cuộc băng ghi âm nội dung buổi thuyết pháp. Đã có sự tiếp xúc và thỏa thuận giữa các Thầy và chính quyền địa phương về việc phổ biến. Dù nội dung bài thuyết pháp có lời lẽ chỉ trích chính quyền song không mạnh mẽ quá đáng và đã được đôi bên xét duyệt qua và đồng ý. Nếu mọi việc diễn tiến như đã thỏa thuận thì chắc chắn sẽ không có sự kiện gì đáng tiếc xảy ra. Đàng này, một mặt các Thầy đồng ý sẽ phát nội dung buổi thuyết pháp như đôi bên đã thỏa thuận, song mặt khác lại thực hiện một cuộn băng ghi âm khác mà nội dung đại diện chính quyền không được biến đến. Trong ngày này, khi chưa đến giờ phát thanh buổi chiều (Đài chỉ phát Sáng, Trưa và Chiều tối chứ không hoạt động suốt ngày) thì tại các chợ, phường, xóm trong Thành Phố đã có tin loan truyền kêu gọi đồng bào Phật Giáo tụ tập tại Đài Phát Thanh vào chiều tối để nghe thuyết pháp và đón xe hoa từ Đà Nẵng ra. Càng về chiều, đồng bào từ các nơi kéo về Đài Phát Thanh càng đông, trong khi đó tại Chùa Từ Đàm đã có sẵn một số đồng bào cũng kéo về đài. Khi đồng bào đã tập trung đông đảo chật cả khuôn viên Đài Phát Thanh thì có mấy Phật Tử đòi ông Quản Đốc Đài cho phát cuộn băng. Ông Quản Đốc Đài đã cảnh giác nên muốn kiểm duyệt trước nội dung xem có đúng là cuộn băng đã được thỏa thuận trước hay không thì phía mấy Phật Tử này nhất quyết không cho kiểm duyệt và dùng đám đông la hét làm áp lực buộc ông Quản Đốc phải cho phát cuốn băng họ đưa. Thế là huyên náo xảy ra. Các Phật Tử la ó chống đối kịch liệt, một số định trèo lên nóc nhà treo cờ, một số khác xô đẩy định phá cửa đài (đã đóng kín).

Ngay lúc hỗn độn, Thiếu Tá Đặng Sỹ Phó Tỉnh Trưởng Nội An đi trên một xe bọc sắt với một Trung Úy và binh sĩ tiến vào can thiệp. Xe vừa xuất hiện, Thiếu Tá Sỹ vừa cho phát loa kêu gọi đánh đông giải tán thì một số thanh niên bu lại chận đường, người tìm cách trèo lên xe, người la hét. Bị bao vây, Thiếu Tá Sỹ đứng trên xe bắn mấy phát súng lục chỉ thiên, đồng thời cho nổ mấy trái lựu đạn loại OF, gọi là lựu đạn hơi, để dọa trong khi loa kêu gọi giải tán. Một quả đã nổ cách chỗ tôi đứng chừng hơn một thước mà tôi không hề hấn gì, chỉ bị sức mạnh của hơi tạt vào người làm cho lắc lư. Đang khi một số đồng bào giao động vì tiếng súng, tiếng nổ của lựu đạn hơi, đang tản thoát lui và trên cửa Đài Phát Thanh vẫn la ó, xô đẩy cửa thì một tiếng nổ rất dữ dội lửa chớp sáng lóe lên xảy ra ngay trên thềm đài nơi cửa ra hành lang làm cho một số chết tại chỗ. Liền sau đó xe vòi rồng được điều động đến xịt nước giải tán đám người còn ở giữa sân. Hơn phân nửa số người bởi hoảng sợ đã bỏ chạy tản mác ra các khu vực chung quanh. Cuối cùng đám người biểu tình cũng đã giải tán.

Các Bác Sĩ giảo nghiệm các tử thi trong biên bản ghi là người chết vì sức ép của chất nổ cực mạnh chứ không hề có ghi vì xe tăng cán chết hoặc do súng bắn.

Những điểm tôi cần nhấn mạnh ở đây là:

* Thiếu Tá Sỹ chỉ bắn mấy phát súng lục chỉ thiên chứ ông cũng như binh sĩ dưới quyền không bắn thẳng vào đồng bào Phật Tử.

* Lựu đạn sử dụng là loại hơi (OF), chứ không phải loại sát thương, vì không có ai bị thương tích gì. Lựu đạn chỉ được liệng vào khoảng trống chứ không vào đám đông.

* Xe bọc sắt của Thiếu Tá Sỹ chỉ tiến được vào giữa sân rất khó khăn, chứ không tiến sát vào được gần thềm đài vì kẹt đám đông.

* Sau khi đám đông giải tán, ở giữa sân không hề có dấu vết gì chứng tỏ xe đã cán chết người như một vài luận điệu hàm hồ cho rằng ông Sỹ đã dùng xe tăng cán người.

Tiếng nổ làm cho 8 em bé từ tuổi 12 đến 14 chết, trong đó có một em là con của Trung Sĩ Dương Viết Tây, phục vụ tại Khu 11 An Ninh Quân Đội Huế, một em là người Công Giáo, và một số bị thương. Ngoại trừ em bé người Công Giáo, 7 em còn lại đều thuộc Đoàn Thiếu Nhi Phật Tử. Các em đứng phía trước, bị đám đông ở phía sau đẩy tới, dồn ép quá chen chúc nên đã bị chết vì sức ép quá mạnh của chất nổ. Lúc ấy khoảng 10 giờ 30 khuya.

Các nạn nhân, người chết cũng như bị thương, đều được đưa vào bệnh viện Trung Ương Huế khám nghiệm và chữa trị".

Đến khoảng 0 giờ 30 sáng hôm sau, mấy anh em chúng tôi còn ngồi ở văn phòng thì, Thiếu Tá Sỹ từ Đài Phát Thanh gọi điện thoại về cho biết dân chúng đã giải tán hết, tình hình đã yên tĩnh trở lại. Tôi vội lái xe ra ngay hiện trường, được Thiếu Tá Sỹ dẫn đến cho coi nơi phát ra tiếng nổ. Đó là vị trí ngay góc cửa văn phòng Đài đi ra hành lang phía Đông, tức là phía Cầu Tràng Tiền. Chất nổ tạo một lỗ hõm tròn trên nền gạch bông, sâu chừng 1cm, rộng chừng 15cm. Cánh cửa mở ra hành lang, phía trên có hai lớp, bên ngoài là lá sách, bên trong là kính, tất cả kính đều vỡ bay đi hết, trên tường và cánh cửa không có vết thủng nào.

NGÀY 9 THÁNG 5

Sáng ngày 9 tháng 5 Thượng Tọa Trí Quang xin được đưa tất cả số người chết về Chùa Từ Đàm để tổ chức lễ cầu siêu và làm đám táng tập thể. Nhưng vì những việc thất tín ông đã làm trong mấy ngày trước nên chính quyền đề nghị để cho gia đình các nạn nhân tự lo liệu. Những người chết được đưa về gia đình. Đại diện chính quyền và đoàn thể đã đến phân ưu, ủy lạo và giúp đỡ mai táng. Việc chôn cất diễn tiến êm xuôi tốt đẹp.

Cũng trong buổi sáng này, một dư luận được tung ra: Số người chết vì bị xe tăng cán. Bác Sĩ Lê Khắc Quyến Giám Đốc Bệnh Viện Trung Ương, Khoa Trưởng Trường Đại Học Y Khoa Huế, nơi có hai Bác Sĩ Wulf và Holterscheidt giảng dạy, đã cho một người bà con của ông là cựu Giám Đốc Công An Cảnh Sát Trung Nguyên Trung Phần Lê Khắc Duyệt, coi những tấm hình xe tăng cán lên xác người.

Nhưng kết quả khám nghiệm các tử thi xác định các nạn nhân bị chết vì sức ép quá mạnh của một loại chất nổ. Mặt khác, các nạn nhân bị chết đều nằm trên thềm hành lang Đài Phát Thanh. Muốn đến được địa điểm này, xe phải băng ngang qua Đường Lý Thường Kiệt, qua khoảng sân trước Đài và đi xuống phía bờ sông chừng 10 thước nữa. Tất cả chiều dài đoạn đường này không dưới 40 thước, khi ấy dân chúng đứng chật như nêm cối, chen chân vào không nổi, làm sao một xe bọc sắt kềnh càng lại có thể vượt qua quãng đường này không đụng vào ai để đến cán chết mấy em bé đứng trên hành lang. Một điểm khác nữa là, mặt nền Đài Phát Thanh cao hơn mặt đất khoảng 0, 80 mét có lan can chạy suốt chiều dài hành lang. Loại xe bọc sắt với bánh cao su không thể leo lên một độ cao có thành thẳng đứng như vậy. Hơn nữa nếu xe leo lên được thì làm sao dãy lan can không bị ủi sập?

Có lẽ vì những yếu tố quá rõ ràng trên đây, làm cho tấm ảnh xe tăng cán người dễ dàng bị lật tẩy, nên người ta đã không thấy nó được sử dụng.

Tôi thấy cần nói qua về Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, một nhân vật luôn sát cánh với Thượng Tọa Thích Trí Quang trong phong trào tranh đấu mang danh Phật Giáo. Từ khi phong trào này được phát động cho đến khi bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan.

Ông Quyến từng là thành viên của phong trào bảo vệ hòa bình hoạt động theo lập trường hòa bình của cộng sản Bắc Việt, đòi hiệp thương, tổng tuyển cử v. v. . . sau khi Hiệp định Geneva được thi hành. (Mười Hương, người chỉ huy màng lưới tình báo chiến lược của Bắc Việt tại miền Nam và hai nước Miên, Lào, cũng ở trong phong trào này). Nhóm này bị Chính Phủ của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm quyết định tống xuất ra Bắc Việt. Một số thành viên của phong trào tại Huế, trong đó có Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, đã quy thuận và xin Chính Phủ cho họ được ở lại miền Nam. Ông là một Bác Sĩ Việt Nam có uy tín về nghề nghiệp ở Huế, được bổ nhiệm làm Giám Đốc Bệnh Viện Huế khoảng năm 1956. Ông được ông Cẩn tin cậy quý mến nhờ săn sóc riêng cho Bà Cụ Ngô Đình Khả. Khi Viện Đại Học Y Khoa Huế được thành lập ông đã dễ dàng nắm chức Khoa Trưởng. Hai Bác Sĩ người Đức Wulf và Holtescheidt gặp và làm việc với ông tại cả hai nơi Trường Y Khoa và Bệnh Viện Huế. Họ đã nhanh chóng trở nên thân thiết vì cùng có lập trường thân cộng. Vì vậy họ là những người rất hăng say trong phong trào tranh đấu mang danh Phật Giáo chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Sau khi anh em Tổng Thống Diệm bị giết, ông cùng với một nhóm nhỏ Giáo Sư của Viện Đại Học Huế, dùng phương tiện của Viện Đại Học xuất bản tờ báo Lập Trường tích cực khích động tinh thần chia rẽ, đố kỵ Công Giáo-Phật Giáo. Khi phong trào tranh đấu của Thượng Tọa Thích Trí Quang hoạt động chống Chính Phủ Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ, nhóm này thành lập phong trào nhân dân cứu quốc, đòi đuổi người Mỹ, tách miền Trung khỏi Chính Phủ Trung Ương Sài Gòn thì ông là chủ tịch của phong trào này.

Những ngày kế tiếp, mặc dầu bầu không khí trong Thành Phố vẫn còn vương vấn mầu u ám của tai nạn thảm khốc tại Đài Phát Thanh tối hôm 8. 5, nhưng không xảy ra cuộc xáo trộn nào, tuy có tin nhóm Thượng Tọa Trí Quang đang có nhiều mưu tính.

Một tuần lễ sau, Thượng Tọa Thích Trí Quang viết thơ trình bày với ông Cẩn rằng, việc đưa ra 5 nguyện vọng là do bị áp lực và ông lại cam đoan không có tranh đấu gì nữa. (Trong Bạch thư phổ biến ngày 31. 12. 1993, Hòa Thượng Thích Tâm Châu có nói đến việc Thượng Tọa Trí Quang gửi là thơ này).

Tình hình lắng dịu, chỉ còn những buổi thuyết pháp, tụng kinh, được truyền qua loa phóng thanh mỗi buổi chiều tại hai Chùa Từ Đàm và Diệu Đế kéo dài chừng mười ngày. Đến cuối tháng 5 thì đột phát trở lại với những cuộc tụ họp tại một vài Chùa của một số thanh niên gồm sinh viên Viện Đại Học Huế và học sinh Trung Học. Đặc biệt là tại Chùa Từ Đàm, nhóm này công khai hoạt động chống Chính Phủ, gây nhiều xáo trộn, làm trở ngại cho sinh hoạt thường ngày của dân chúng không ít.

Để vãn hồi trật tự, chính quyền địa phương phải nhờ Quân Đội can thiệp, giải tán những toán biểu tình ngồi lì ngoài đường gần Chùa. Tướng Đỗ Cao Trí cho áp dụng biện pháp cứng rắn như cắt điện, cắt nước, đối với hai Chùa Từ Đàm và Diệu Đế, nhằm chấm dứt những cuộc tụ họp bất hợp pháp tại các nơi này.

Trong thời gian này, các hoạt động chống Chính Phủ đã lan vào đến các Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Chùa Xá Lợi tại Sài Gòn.

PN99
03-12-2009, 19:30
Chương 2.5



TẠI SAO BIẾN ĐỘNG "CỜ PHẬT GIÁO" ĐƯỢC KHỞI ĐỘNG TỪ HUẾ?


Công điện nhắc nhở việc treo giáo kỳ theo quy định năm 1963 được Chính Phủ Sài Gòn gửi đến cho tất cả các Tỉnh, Thành trong toàn quốc. Không phải chỉ riêng Tỉnh Thừa Thiên và Thành Phố Huế nhận được Công Điện này. Nếu tôi nhớ không lầm thì, dưới thời Đệ I Cộng Hòa, toàn miền Nam có 44 Tỉnh Thành. Vậy tại sao việc phản đối đưa đến biến động chỉ xảy ra tại Thừa Thiên-Huế? Chính xác hơn, là xảy ra trong Thành Phố Huế?

Tôi đã được nghe nhiều người nêu lên thắc mắc trên đây, và hầu như tất cả mọi câu trả lời đều là: Vì Huế là Trung Tâm, là cái nôi của Phật Giáo.

Câu trả lời trên đây, theo tôi, không hoàn toàn đúng vì Huế chỉ là Trung Tâm Phật Giáo của miền Trung. Còn tại miền Nam, khối Phật Giáo đồ nhiều hơn và các hoạt động Phật sự cũng không kém sầm uất so với Huế. Nhưng tại tất cả mọi nơi, kể cả tại miền Trung, ngoại trừ tại Thành Phố Huế, đều yên tĩnh, không có phản ứng gì đối với việc nhắc nhở phải treo giáo kỳ theo quy định, đối với Quốc Kỳ.

Để có thể tìm được một câu trả lời chính xác hơn, đề nghị quý độc giả xét qua lý lịch của những giới chức có trách nhiệm và thẩm quyền, trong việc khởi động cũng như hòa giải biến động này, tại Tỉnh Thừa Thiên và Thành Phố Huế.

1. - Phía Khởi Động: Người đứng đầu là Thượng Tọa Thích Trí Quang.

Thượng Tọa Trí Quang sinh năm Giáp Tý (1924), tại làng Diêm Điền Tỉnh Quảng Bình. Thân mẫu ông là hội viên Hội Tiên Thiên Thánh Giáo (hội những người chuyên lên đồng bóng). Khi nhỏ, ông tu học tại Chùa Bảo Quốc, Huế với các Thượng Tọa Thích Trí Độ, Thích Mật Thể v. v. . . là những vị sáng lập Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo tại miền Trung.

Người ta biết rằng, Phong Trào Chấn Hưng Phật Giáo được thành lập tại Huế vào đầu thập niên 30, với Bác Sĩ Lê Đình Thám là Hội Trưởng, các sư bà Diệu Không, Thượng Tọa Thích Trí Độ, Thích Mật Thể v. v. . . là hội viên. Chính quyền Bảo Hộ khi ấy không chịu cấp giấy phép cho Phong Trào hoạt động, vì có nghi vấn sao đó. Nhờ có sư bà Diệu Không, một người bà con với Cụ Phò Quan Quận Vương Phụ Chánh Thân Thần Tôn Thất Hân xin Cụ can thiệp, Phong trào mới được cấp giấy phép. Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền, các vị kể trên, ngoại trừ sư bà Diệu Không, đều ra Hà Nội hợp tác, hoạt động với chính quyền Việt Minh. Thượng Tọa Thích Trí Quang được đi theo các vị này, và hoạt động trong hội phật giáo cứu quốc do Thượng Tọa Thích Mật Thể làm chủ tịch. Năm 1947, Thượng Tọa Trí Quang về quê tại Quảng Bình một thời gian ngắn, sau đó vào Huế, trong khi gia đình Thượng Tọa vẫn ở làng quê Diêm Điền trong vùng kiểm soát của Việt Cộng. Vào Huế, Thượng Tọa tiếp tục hoạt động trong hội phật giáo cứu quốc, bị chính quyền Pháp thời ấy bắt giam và bị quản thúc sau khi được trả tự do.

Ông Phạm Tường cựu Giám Đốc Nha Công An Cảnh Sát Cao Nguyên Trung Phần, cựu viên chức công an Tỉnh Quảng Bình cho biết, cuối năm 1953, Thượng Tọa Trí Quang đã bị Đại Úy Le Blaze Trưởng Phòng 5 Secteur Đồng Hới, (bộ phận sở công an Pháp đặt tại các Tỉnh) phối hợp với Ty công an Quảng Bình bắt hụt, khi Thượng Tọa ra gặp Thượng Tọa Thích Trí Độ từ Hà Nội vào tại làng Diêm Điền. Vì đội xung kích của hai cơ quan trên đã đụng phải lực lượng bảo vệ an ninh cho cuộc gặp gỡ này, trước khi đến được địa điểm hai vị Thượng Tọa gặp nhau.

Khi Hiệp định Geneva được ký kết, tháng 7 năm 1954, tại vùng đất sẽ được đặt thuộc quyền quản trị của chính quyền Quốc Gia (phía Nam vĩ tuyến thứ 17), nổi lên một tổ chức mang tên "Phong trào bảo vệ hòa bình". Lập trường của phong trào này tôi đã đề cập sơ qua trong đoạn nói về Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, chủ tịch mặt trận cứu quốc chống Chính Phủ Thiệu-Kỳ ở một phần trên. Phong trào này hoạt động đòi hỏi Chính Phủ miền Nam phải tôn trọng Hiệp định Geneva, phải hiệp thương với cộng sản Bắc Việt, không trả thù những người kháng chiến, tổ chức tổng tuyển cử v. v. . . đúng theo lập trường của cộng sản Bắc Việt. Vì vậy cuối năm 1954, chính quyền của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã bắt giữ các thành viên của phong trào này và quyết định tống xuất ra Bắc. Một số thành viên của phong trào này sinh sống tại Huế, trong đó có Thượng Tọa Thích Trí Quang, Bác Sĩ Lê Khắc Quyến, Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, Thầu Khoán Nguyễn Ngọc Bang, Nhà Buôn Vĩnh Cơ. Những người này đã xin Chính Phủ khoan hồng để được ở lại miền Nam. Thời Đệ I Cộng Hòa Bác Sĩ Quyến và tất cả những người kể trên đều được trọng dụng. Thời Quân Đội nắm quyền dưới cơ chế Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia với Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Bác Sĩ Quyến là mặt trận cứu quốc của miền Trung, chống lại Chính Phủ Trung Ương.

Được ở lại miền Nam, Thượng Tọa Trí Quang đã tìm mọi cách khai thác triệt để tình đồng hương với ông Ngô Đình Cẩn, để tranh thủ lòng tin của ông.

2. - Phía Hòa giải:

a/. Người có trách nhiệm đầu tiên về cả hai mặt Hành Chánh và Quân Sự là Tỉnh Trưởng Thừa Thiên kiêm Thị Trưởng Thành Phố Huế Nguyễn Văn Đảng.

Ông Nguyễn Văn Đảng nguyên là một nhân viên hành chánh ngạch Thừa Phái. Giữa năm 1951 ông được ông Lê Văn Đạm Giám Đốc Nha Quản Lý Viện Trợ Kinh Tế Mỹ-Trung Việt, nhận vào cho tạm coi về nhân viên của Nha này. Tại đây ông gặp một nữ Thư Ký tên là Lê Thị Trung, nhà ở Đường Âm Hồn, trong khu Thành Nội Huế, ông đã bỏ người vợ cũ để lấy cô này. Người vợ mới này của ông cũng là hội viên Hội Tiên Thiên Thánh Giáo như thân mẫu của Thượng Tọa Trí Quang. Đến khi Chính Phủ Mỹ viện trợ trực tiếp cho Chính Phủ Việt Nam, Nha Quản Lý Viện Trợ Kinh Tế Mỹ giải tán, cô Trung được chuyển về Tòa Hành Chánh Tỉnh Thừa Thiên, nơi sau này chồng cô, ông Nguyễn Văn Đảng về giữ chức Tỉnh Trưởng.

Ông Nguyễn Văn Đảng với dáng điệu, cử chỉ, cách ăn nói có vẻ hiền hòa, nhỏ nhẹ, đã được ông Ngô Đình Cẩn đặc biệt nâng đỡ. Từ một Thừa Phái ông được cân nhắc lên dần đến Phó Tỉnh Trưởng Quảng Trị, rồi Tỉnh Trưởng Bình Định, và cuối cùng là Tỉnh Trưởng Thừa Thiên kiêm Thị Trưởng Thành Phố Huế.

Được ưu đãi như thế, nhưng bị ảnh hưởng của người vợ hội viên Hội Tiên Thiên Thánh Giáo, nên ông Đảng đã bị Hội Trưởng của hội này, ông Phạm Ngọc Đạm, một thuộc cấp của ông, điều khiển. Vì thế trước khi Tướng Trần Văn Đôn dời Quân Đoàn I vào Sài Gòn nhậm chức Tư Lệnh Lục Quân, ông Đảng đã mời Tướng Đôn đến nhà, dẫn vào một phòng có bày bàn thờ Phật. Tại đây ông Hội Trưởng Hội Tiên Thiên Thánh Giáo Phạm Ngọc Đảm đứng chờ sẵn. Khi Tướng Đôn bước vào phòng, ông Hội Trưởng mời cùng lễ Phật với ông và ông Đảng. Cuộc lễ Phật được kết thúc bằng màn ông Hội Trưởng đốt một nắm nhang đưa vào miệng nhai, trong khi nắm nhang đang cháy thành lửa ngọn. Sau khi đã nuốt nắm tàn nhang, ông Hội Trưởng quay qua phán rằng:

"Thánh Giáo có chỉ định Trung Tướng Trần Văn Đôn cầm quân đảo chánh"

Việc này chính Tướng Đôn đã thú nhận trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng của ông. (Trang 165)

Có thể tư tưởng đảo chánh chế độ Đệ I Cộng Hòa ám ảnh đầu óc Tướng Đôn từ đó. Mặc dầu ông đã xin được gia nhập đảng Cần Lao đầu năm 1961, sau khi được ông Cẩn cứu cho khỏi bị nghi ngờ có dính líu trong cuộc binh biến ngày 11. 11. 1960. Ngoài ra, chắc chắn Tướng Đôn còn bị thúc đẩy tham gia đảo chánh bởi một nữ gián điệp của Việt Cộng mà ông rất si mê. Tôi sẽ đề cập tới vấn đề này trong phần viết về ông.

b/. Sau Tỉnh Trưởng sở tại, người có thẩm quyền cao nhất, có khả năng giải hóa vụ này về mặt quân sự, là vị Tư Lệnh Quân Đoàn I và Vùng I Chiến Thuật, Tướng Lê Văn Nghiêm.

Theo một số sĩ quan cao cấp xuất thân từ Huế thì, thời Đệ Nhị Thế Chiến, Tướng Nghiêm ở trong đoàn lính thợ do chính phủ bảo hộ Pháp bắt Chính Phủ Nam Triều cung cấp để đưa sang phục vụ chiến trường tại Pháp. Ông hồi hương năm 1946 với cấp bậc Thượng Sĩ. Khi người Pháp trở lại Việt Nam sau khi quân đội Anh hoàn tất nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật, ông Nghiêm đã được ông Trần Văn Lý giới thiệu cho vào quân đội Pháp và được mang cấp bậc Thiếu Úy. Giáo Sư Học Giả Võ Long Tê cho biết: Thiếu Úy Lê Văn Nghiêm từng là Trung Đội Trưởng Trung Đội An Ninh Phủ Tổng Đốc Trung Phần thời kỳ chưa có chế độ Thủ Hiến. Khi ấy vị đứng đầu mỗi Phần được gọi là Quốc Vụ Khanh Thống Đốc và vị Phó là Thứ Ủy Khanh. Ông Nghiêm đã để xảy ra vụ một tên lính lê dương người Áo theo Việt Cộng, lái xe vào thẳng Dinh Thống Đốc, bắn chết Thứ Ủy Khanh Hà Văn Lan ngay tại văn phòng tại Huế. Mặc dù vậy, trong thời còn quân đội viễn chinh Pháp là Trung Tá. chỉ huy Lữ Đoàn Lưu Động 21. Thời Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, khi quân đội Pháp phải rút hết khỏi Việt Nam, ông là vị Tư Lệnh thứ hai tại Quân Khu II (Sau đổi thành Quân Khu I) sau Đại Tá Nguyễn Quang Hoàng và vinh thăng Thiếu Tướng khi đang ở chức vụ này. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức vụ Chỉ Huy Trưởng Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, Tư Lệnh Quân Đoàn III Chiến Thuật, và trở về lại Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật tại Huế cuối năm 1962. Là một đảng viên kỳ cựu của đảng Cần Lao, năm 1955 ông đã được bầu làm Bí Thư Quân Ủy đảng Cần Lao đầu tiên và cũng là sau hết.

Ông là một Tướng lãnh trong đời binh nghiệp đã từng lập được nhiều chiến công trong cuộc chiến tranh chống cộng sản, được chế độ tín nhiệm. Và nếu như người ta nói, đảng Cần Lao gồm những thành phần tuyệt đối trung thành với Tổng Thống Ngô Đình Diệm, được Tổng Thống tuyệt đối tin tưởng và dùng để khống chế Quân Đội, kiểm soát chính quyền, thì Tướng Nghiêm phải là người được coi là trung thành với chế độ và được chế độ tin tưởng hơn ai hết.

Nhưng tôi được ông Hoàng Ngọc Trợ kể lại sự kiện dưới đây về ông Nghiêm mà tôi và có lẽ rất nhiều người không bao giờ nghĩ tới với vị Tướng này.

Ông Trợ kể rằng: Một cựu nhân viên phòng tình báo liên khu 5 Việt Cộng, vì lý do riêng xin được dấu tên, hồi chánh năm 1956, hiện định cư tại California. Khi được biết sau ngày 30. 4. 1975 Tướng Nghiêm không phải đi cải tạo, ông này mới tiết lộ, rằng khi ông làm trong phòng tình báo của liên khu 5 Việt Cộng, ông vẫn thường nhận được tin tức về các kế hoạch hoạt động của quân đội viễn chinh Pháp và Quân Đội Quốc Gia do ông Nghiêm báo cáo. Khi về hồi chánh phục vụ trong ngành hành chánh, thấy Tướng Nghiêm được chế độ tín nhiệm và trọng dụng, ông nghĩ rằng ông ta đã thục sự dứt bỏ quá khứ nên làm thinh.

Nhân chứng từ một nước trong vùng Âu Châu mới được tái định cư tại Hoa Kỳ 3, 4 năm nay. Mới đây, qua một cuộc điện đàm, ông và ông Hoàng Ngọc Trợ đều xác nhận với tôi về sự đúng đắn của sự việc kể trên.

Cựu Trung Tá Nguyễn Duy Nghệ, hiện định cư tại Thành Phố Anaheim, Orage County, nguyên là Sĩ Quan Tùy Viên phụ trách hành quân của Tướng Tôn Thất Đính cũng cho biết: Khi Tướng Tôn Thất Đính được đưa từ Quân Đoàn II về thay thế Tướng Nghiêm làm Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông Ngô Đình Nhu đã đặc biệt lưu ý Tướng Đính về sự kiện thời gian Tướng Nghiêm làm Tư Lệnh Quân Đoàn III, mọi cuộc hành quân quan trọng đều bị tiết lộ. Vì vậy khi chỉ huy Quân Đoàn III, mỗi lần mở hành quân, Tướng Đính đều đem Sĩ Quan Trưởng Phòng 3 và Tùy Viên phụ trách hành quân về làm lệnh hành quân tại nhà. Bộ Tham Mưu, kể cả Tham Mưu Trưởng của ông, đều không được biết gì trước cuộc hành quân khai mở.

Sau khi bàn giao Quân Đoàn III cho Tướng Đính, Tướng Nghiêm lại được trở về miền Trung, giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật. Và khi Thượng Tọa Trí Quang mở màn cuộc "tranh đấu" bằng chiến dịch "chống lệnh cấm treo cờ Phật Giáo", thì các chỉ huy cao cấp nhất về quân sự và hành chánh tại địa phương, đều là người đứng đằng sau ông.

Tuy vậy, mãi cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ không ai nghi ngờ gì Tướng Nghiêm. Nhưng sau này, những người được biết Tướng Nghiêm vẫn thong dong an dưỡng tuổi già tại ngôi biệt thự tọa lạc ở góc Đường Hai Bà Trưng-Phan Đình Phùng, trong khi tất cả Quân Cán Chính lớn nhỏ của Việt Nam Cộng Hòa còn ở lại, đều bị vào tù cải tạo, thì họ đều nghĩ rằng Tướng Nghiêm phải là một cán bộ hoặc đã lập được công lao với cộng sản nên mới được họ dành cho một chế độ đặc biệt như thế.

Ông Nguyễn Ngọc Bang một nhà thầu khoán tên tuổi ở Huế, một trong số những thành viên của phong trào "Bảo vệ hòa bình" đã quy thuận để được ở lại miền Nam, người trực tiếp nhận báo cáo từ Tướng Nghiêm chuyển lên mật khu cho Việt Cộng, đã xác nhận với cố Đại Tá Phan Văn Khoa:"Ông Nghiêm là người của cách mạng, có công lớn nên không phải học tập". Cố Đại Tá Khoa nguyên là Cảnh Sát Viên trong Đội Cảnh Sát gác Dinh Thống Đốc Trung Phần ngày Thứ Ủy Hà Văn Lan bị sát hại. Thời Đệ II Cộng Hòa ông Khoa đã giữ chức vụ Tỉnh Trưởng Tỉnh Thừa Thiên, Thị Trưởng Thành Phố Huế. Sau ngày 30.4.1975 ông bị tù cải tạo gần 13 năm, khi được trả tự do, thấy Tướng Nghiêm không phải đi cải tạo, trong một dịp gặp ông Nguyễn Ngọc Bang đề cập tới trường hợp này, ông đã được ông Bang xác nhận như trên. Ông Khoa qua Hoa Kỳ theo diện HO, định cư tại Thành Phố Gardena, Los Angeles County, đã qua đời cách nay 5, 6 năm vì bệnh ung thư gan.

Về phần ông Nguyễn Ngọc Bang khi hoạt động cộng sản của ông này bị cơ quan An Ninh phát giác, ông đã được ông Bửu Vu, Chủ Tịch Hội Nguyễn Phước Tộc đứng ra bảo đảm nên đã được yên ổn làm ăn.

Qua lý lịch của ba nhân vật then chốt có thẩm quyền và trách nhiệm trong "Biến Động Cờ Phật Giáo" tại Huế kỳ Lễ Phật Đản năm 1963, được lược thuật trên đây, người ta có thể thấy được tại sao Biến Động này đã xảy ra tại Thành Phố Huế. Trong khi tại 43 Tỉnh, Thành khác trong toàn miền Nam, lệnh nhắc phải treo cờ Quốc Gia tại các nơi thờ tự đã không gây nên một giao động, thắc mắc nào trong giới Phật Tử.

PN99
03-12-2009, 19:32
Chương 2.6



KIỂM SOÁT MỘT SỐ CHÙA


Sau khi tiếp nhận 5 nguyện vọng do nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang, với danh nghĩa Phật Giáo đạo đạt, Tổng Thống Diệm đã chỉ thị Chính Phủ thành lập một Ủy Ban Liên Bộ đại diện cho chính quyền. Đồng thời yêu cầu Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam thành lập một Ủy Ban Liên Phái đại diện cho Phật Giáo toàn quốc. Hai bên cùng thương thảo giải quyết toàn bộ vấn đề.
Được biết quyết định của Chính Phủ, Thượng Tọa Trí Quang sợ một Ủy Ban Liên Phái mà thành phần sẽ do Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam chỉ định, sẽ không đi đúng đường lối của mình. Nại cớ vụ rắc rối đã xảy ra giữa chính quyền và Phật Giáo tại Huế, Thượng Tọa xin ông Ngô Đình Cẩn giúp đề nghị với Tổng Thống Diệm cho Ủy Ban Liên Bộ thương thảo với Phật Giáo miền Trung chỉ đại diện cho một Miền, nên đề nghị của Thượng Tọa Trí Quang không được Tổng Thống Diệm chấp thuận, Phật Giáo miền Trung được yêu cầu cử đại biểu tham gia phái đoàn Liên Phái Phật Giáo, để cùng giải quyết những nguyện vọng của Phật Giáo toàn quốc.
Khi buộc phải tham gia vào Ủy Ban Liên Phái, nhóm Thượng Tọa Trí Quang đã khôn khéo dùng danh nghĩa Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết, chỉ định Thượng Tọa Thích Thiện Minh của Chùa Từ Đàm thay mặt, làm Chủ Tịch Ủy Ban. Còn hai vị Phó Hội Chủ, Thượng Tọa Thích Tâm Châu và ông Mai Thọ Truyền chỉ là thành viên.
Trong khi Ủy Ban Liên Bộ và Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo đang chuẩn bị cho cuộc họp đầu tiên, thì ngày 11. 6. 1963 xảy ra sự kiện Thượng Tọa Thích Quảng Đức được một xe hơi chở đến ngã tư Phan Đình Phùng-Lê Văn Duyệt, được dìu ra ngồi giữa ngã tư và tự thiêu.
Cuộc tự thiêu này được Giáo Sư Bùi Hữu Sủng, người tình cờ được chứng kiến từ những giây phút đầu, thuận lại với ông Nguyễn Trân tác giả hồi ký lịch sử "Công và Tội" như sau:
"Lúc bấy giờ, lời Cụ Sủng, tôi làm Hiệu Trưởng Trường Nguyễn Khuyến, số 68 Đường Lê Văn Duyệt và 181 Đường Phan Đình Phùng Sài Gòn, đối diện với Sứ Quán Cam Bốt. Sáng hôm 11. 6. 1963, tôi thấy Thầy Thích Tâm Châu và Thích Tâm Giác từ phía Trường Học Pháp Colette đi xe hơi tới rồi vòng quanh trước Trường Nguyễn Khuyến và Sứ Quán để dò đường. Một lát sau, độ mười chú Tiểu tới đứng thành vòng tròn giữa ngã tư. Kế tiếp một xe hơi đen hiệu Austin chạy tới rồi dừng lại. Người lái xe là ông Trần Quang Thuận mở cửa xe, dìu một vị Sư già bước xuống rồi đưa tới để ngồi giữa vòng tròn của chú Tiểu, đoạn xe chạy đi. Vị Sư ấy mà tôi biết là Thích Quảng Đức bật quẹt lửa, nhưng không cháy. Thầy Tâm Giác liền tới quẹt diêm và châm lửa. Lửa phừng lên cao phủ cả người Thầy Quảng Đức. Trông thật là kinh khủng và thê thảm. Tôi run cả người lên và thấy một Cảnh Sát Viên đứng gác gần đó chụp mũ vào ngực khóc sướt mướt".
Hỏi sao Cụ biết vị Sư đó là Thích Quảng Đức, Cụ Sủng trả lời:
"Vợ tôi thường đi Chùa Phước Hòa trên Đường Phan Đình Phùng nên nhiều lần thấy Thầy Quảng Đức ở đó. Mỗi ngày hai bữa Thầy Tâm Giác đem thức ăn tới cho Thầy".
Tôi (Nguyễn Trân) hỏi Cụ Sủng có phải là Thầy Quảng Đức say thuốc như người ta nói không? Cụ Sủng trả lời:
"Không biết, chỉ thấy Thầy đi lảo đảo và lúc ở Chùa thì được biết là Thầy có bệnh". (Công Và Tội. Trang 420)
Những người trong chính quyền Kennedy thuộc nhóm chủ trương phải thay Tổng Thống Diệm, đã nhanh chóng chụp lấy cơ hội này thực hiện một kế hoạch thâm độc. Bề ngoài họ công khai yêu cầu Chính Phủ Việt Nam phải nhượng bộ những đòi hỏi của các nhà lãnh đạo Phật Giáo. Nhưng bên trong họ lại nói với nhau:
"Chúng ta hiểu rõ rằng thỏa mãn những yêu sách của Phật Giáo. . . là khuyến khích họ yêu sách hơn nữa. . . nhưng chúng ta vẫn đòi hỏi Chính Phủ Việt Nam phải thỏa mãn những yêu sách ấy". (The Year Of The Hare. Trang 34)
Và ngay sau khi Tổng Thống Kennedy cử ông Henri Cabot Lodge giữ chức Đại Sứ tại Việt Nam thay Đại Sứ Frederick Nolthing, thì một nguồn tin được loan truyền rất nhanh trong dân chúng Sài Gòn và các Thành Phố lớn. Ông Lodge qua với sứ mạng tổ chức đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Đặc biệt, vị Tân Đại Sứ của Đồng Minh Hoa Kỳ, ông Henri Cabot Lodge, khi vừa đặt chân đến Sài Gòn đã gửi ngay cho nhóm chống đối một thông điệp ủng hộ bằng một hành động đầy tính chất "thực dân, ngạo mạn". Ông ta đến Sài Gòn, chưa trình Ủy Nhiệm Thư lên Chính Phủ Việt Nam, đã đến thăm Thượng Tọa Trí Quang đang ẩn nấp trong cơ quan USOM của Mỹ, chụp hình với Thượng Tọa, và ngày hôm sau tấm hình này đã được phổ biến đi khắp nơi.
Dựa vào những sự tán trợ ngấm ngầm và công khai ấy, các hoạt động của phong trào tranh đấu và những thành phần chống đối chế độ Đệ I Cộng Hòa ngày càng trở nên ồn ào và hung hãn hơn. Một số Chùa đã công khai biến thành Trung Tâm phổ biến tin tức khích động, chỉ huy các cuộc biểu tình và các hoạt động chống Chính Phủ. Tập hợp nhiều thành phần không rõ lý lịch, tạo nên tình trạng vô luật pháp, gây rối loạn an ninh xã hội tại Sài Gòn và một số Thành Phố khác.
Việc biến số Chùa này thành những trung tâm công khai sách động quần chúng chống lại Chính Phủ, là một âm mưu thâm độc được nhóm tranh đấu của Thượng Tọa Trí Quang đưa ra để sập bẫy Chính Phủ. Họ cố tình dựng lên những trung tâm ấy để, vì nhiệm vụ bảo vệ an ninh chung, bắt buộc chính quyền phải dẹp bỏ, họ trông mong trong cuộc dẹp bỏ những nơi này.
"Họ (lực lượng An Ninh của Chính Phủ) sẽ giết một hai người của chúng tôi". (Our Vietnam Nightmare. Trang 181). Lời Thượng Tọa Trí Quang nói với ông Denis Warner, một nhà báo người Úc.
Âm mưu thâm độc này của họ Chính Phủ cũng đã biết rất rõ, như ông Ngô Đình Nhu nói trong lễ bế giảng khóa XIII Ấp Chiến Lược ngày 23. 7. 1963:
"Đó là lối đấu tranh cố tạo ra tình trạng bất ổn bắt buộc lực lượng bảo vệ an ninh phải đối phó, càng bất ổn càng phải đối phó mạnh, càng đối phó mạnh càng làm cho quần chúng bất mãn và đi đến một cuộc đảo chánh".
Nhưng vì bổn phận bảo vệ an ninh chung, lực lượng giữ gìn an ninh của Chính Phủ không thể không hành động.
Về quyết định kiểm soát một số Chùa, tôi được ông Cao Xuân Vỹ và Trung Tá Phạm Thứ Đường, những người đã được đọc bản thỉnh nguyện của một số Tướng lãnh trình lên Tổng Thống Diệm, kể lại: Một số Tướng lãnh do Tướng Trần Văn Đôn dẫn đầu, đã đến gặp ông Ngô Đình Nhu nhờ ông chuyển trình Tổng Thống một thỉnh nguyện thư. Trong thỉnh nguyện thư các Tướng lãnh yêu cầu Tổng Thống phải hành động trước khi tình hình trở nên quá tồi tệ, làm phương hại đến tinh thần chiến đấu của binh sĩ. Họ yêu cầu Tổng Thống tuyên bố tình trạng thiết quân luật, giao cho Quân Đội hành động để trả Chùa chiền lại cho việc thờ phụng.
Việc số Tướng lãnh này gặp ông Ngô Đình Nhu cũng được Tướng Trần Thiện Khiêm, khi ấy là Tham Mưu Trưởng Liên Quân, thuật lại với bà Marguerite Higgins như sau:
"Ngày 20 tháng 8, số Tướng lãnh chủ chốt được mời vào Dinh Tổng Thống thảo luận về tình hình do các cuộc biểu tình gây nên tại các Thành Phố. Ông Ngô Đình Nhu hỏi các Tướng lãnh bây giờ phải làm gì để giải quyết tình trạng này? Người đầu tiên phát biểu ý kiến là Tướng Trần Văn Đôn. Ông Đôn nói rằng, không thể để cho những xáo trộn cứ liên tục tiếp diễn. Tình trạng hỗn loạn này làm sói mòn nghiêm trọng lòng tin của dân chúng vào uy quyền của Chính Phủ trong tin của dân chúng vào uy quyền của Chính Phủ trong khả năng kiểm soát tình hình. Phải tập trung những người điều khiển các cuộc xáo trộn này lại. . . Chùa chiền không thể dành đặc quyền của nơi tôn nghiêm cho hành động khuynh đảo. Việt Cộng đang lợi dụng tình hình. Không thể để một nhóm được đặc quyền đòi hỏi phải có một mức độ kỷ luật nào đó ở hậu phương. . . " Sau khi Tướng Đôn phát biểu, các Tướng lãnh đã thảo luận kỹ lưỡng về kế hoạch bắt giữ những Phật Tử khuynh đảo quá khích, trả Chùa lại cho các sinh hoạt tôn giáo, hơn là để nó trở thành các trung tâm hoạt động chính trị.
Sau cuộc thảo luận, các Tướng lãnh đã quyết định đồng loạt ký tên vào bản thỉnh nguyện trình Tổng Thống Diệm cho phép họ tiến hành thực hiện kế hoạch. Bản thỉnh nguyện được trình Tổng Thống Diệm tối hôm đó, qua ông Ngô Đình Nhu. . . (Our Vietnam Nightmare Trang 191)
Và chính Tướng Đôn, ba hôm sau, ngày 23. 8, đã mời ông Conein đến Bộ Tổng Tham Mưu cho ông này biết rằng:
"Lệnh thiết quân luật ông Diệm tuyên bố trước đây, trong tháng tám là do yêu cầu của mười Tướng lãnh. Quân Đội tìm cách buộc các tăng sĩ từ các Chùa ngoài Thủ Đô vào Sài Gòn phải trở về Tỉnh hoặc Làng của họ. Khi chấp nhận yêu cầu của Quân Đội, ông Diệm đòi phải bảo đảm an toàn cho các tăng sĩ. Ông (Tổng Thống Diệm) cũng chống lại việc đóng cửa các Trường Học, vì giới trẻ cần có cơ hội tự bày tỏ ý kiến của họ. Ông Đôn cũng nhấn mạnh rằng không thể tách ông Nhu ra khỏi ông Diệm được và rằng ông Diệm không thể được thay thế bằng một Tướng lãnh hoặc một người dân sự trong vai trò Quốc Trưởng". (The Year Of The Hare. Trang 55)
Tiếp nhận thỉnh nguyện của Tướng lãnh, sợ Quân Đội hành động quá mạnh, Tổng Thống Diệm đã đưa ra hai điều kiện trước khi chấp thuận lời yêu cầu của họ:
1. - Chính Phủ không thay đổi đường lối hòa giải với Phật Giáo.
2. - Quân Đội phải dàn xếp thế nào để tránh khỏi đổ máu.
Được Tổng Thống chấp thuận, tối ngày 20 tháng 8 các Tướng Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính, Trần Thiện Khiêm, hai Đại Tá Nguyễn Văn Y Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát, Lê Quang Tung Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt đã họp với ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu quyết định việc kiểm soát một số Chùa. Khi ông Nhu nhắc lại việc phải tuân thủ hai điều kiện Tổng Thống đưa ra trong khi thực hiện việc kiểm soát Chùa, các Tướng lãnh đã tỏ ra bất bằng nói: "Tổng Thống đưa ra một vấn đề nan giải". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 56)
Cuộc kiểm soát một số Chùa đã được thực hiện đồng loạt vào những giờ đầu ngày 21. 8. 1963 do Cảnh Sát Dã Chiến, phối hợp với Lực Lượng Đặc Biệt tại Sài Gòn, Cảnh Sát Dã Chiến với Quân Đội tại các nơi khác. Trong toàn miền Nam có tất cả 14 ngôi Chùa bị kiểm soát.
Khi tiến vào các Chùa, Lực Lượng An Ninh đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt. Tại Chùa Từ Đàm họ đã không thể tiến vào khuôn viên Chùa được. Vì không có nón sắt, họ không làm sao vượt qua được những trận mưa gạch, đá từ trong Chùa ném ra. Trước tình hình ấy, Tướng Đỗ Cao Trí đã điều động Quân Đội tới, và ông mặc thường phục, đích thân đến gần Chùa Từ Đàm chỉ huy cuộc hành quân.
Mục đích của cuộc kiểm soát một số Chùa là vãn hồi trật tự công cộng, và thanh lọc số người đang cư trú bất hợp phát tại các nơi ấy.
Mấy vị chân tu như Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa Thượng Tường Vân. . . được đưa đến Bệnh Viện Cộng Hòa, chăm sóc. Tổng Thống Diệm đã cử ông Tôn Thất Thiết, Chánh Sở Nội Dịch Phủ Tổng Thống đại diện lui tới thăm hỏi và chỉ thị Tổng Y Viện Cộng Hòa phải đặc biệt săn sóc các vị ấy.
Các tăng sĩ khác thuộc Chùa nào đều được trả về Chùa ấy. Nhưng đặc biệt, cho đến ngày cuộc đảo chánh bùng nổ, 1. 11. 1963, nghĩa là hơn hai tháng sau ngày kiểm soát một số Chùa, vẫn còn đến gần 300 người cạo đầu, mặc áo nhà tu, nhưng không được Chùa nào cũng như Ủy Ban Liên Phật Giáo nhận lãnh, vì không nơi nào có lý lịch của họ. Số người này, sau ngày 1. 11. 1963, đã được Hội Đồng Tướng Lãnh trả tự do và được coi như bằng chứng Chính Phủ Ngô Đình Diệm bắt bớ giam giữ các tăng sĩ Phật Giáo.
Phần Thượng Tọa Trí Quang, ông đã thoát không bị bắt giữ trong cuộc lục soát Chùa Xá Lợi, nhờ một nhân vật trong văn phòng Tổng Thống báo cho biết trước. Và tôi được Đại Tá Lê Quang Tung cho biết, Thượng Tọa Trí Quang đã trốn được qua cơ quan USOM nhờ chui qua một lỗ hổng đục sẵn từ trước trên bức tường ngăn Chùa Xá Lợi với cơ quan USOM. Lỗ hổng này được che khuất bằng một cái kệ. Thoát được qua trụ sở cơ quan USOM, Thượng Tọa được Tòa Đại Sứ Mỹ bảo vệ. Họ đã từ chối lời Chính Phủ Việt Nam yêu cầu trao Thượng Tọa lại cho cơ quan hữu trách của Chính Phủ.
Những tin tức liên quan đến các hoạt động chống Chính Phủ cũng như sự kiện Thượng Tọa Quảng Đức tự thiêu và việc kiểm soát một số Chùa, đã được các phóng viên ngoại quốc có mặt tại Sài Gòn, đặc biệt là số phóng viên Mỹ, nhanh chóng truyền đi những hình ảnh, tin tức, với những diễn giải hoàn toàn bất lợi cho Chính Phủ. Điều này đã làm cho dư luận tại một số nước trên thế giới, vốn không hiểu biết gì về tình hình an ninh tại Việt Nam, một nước mà tại đó, cuộc chiến tranh ý thức hệ đang diễn ra gay gắt giữa những người dân cùng một tiếng nói, một mầu da. Họ không có chút hiểu biết nào về chiến thuật, chiến lược của loại chiến tranh khuynh đảo và nổi dậy do cộng sản chủ trương và điều khiển. Vì thế, họ đã dễ dàng tin rằng tại đấy đang thực sự có một cuộc đàn áp những người theo một tôn giáo khác với tôn giáo của các Nhà Lãnh Đạo Chính Phủ.
Thêm vào đó, sau vụ kiểm soát một số Chùa, ngay trong thành phần Chính Phủ cũng có những phản ứng vô cùng bất lợi cho Tổng Thống Diệm, như việc ông Vũ Văn Mẫu từ chức Bộ Ngoại Giao, ông Trần Văn Chương từ chức Đại Sứ tại Hoa Kỳ. . . để phản đối quyết định của Chính Phủ.
Đến nay, qua những tài liệu mật của Chính Phủ Hoa Kỳ liên quan đến việc tổ chức cuộc lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm được bạch hóa, người ta được biết các ông trên đây đã được hứa hẹn những chức vụ quan trọng trong chính quyền mới sau khi Tổng Thống Diệm bị loại.
Một điều đáng suy nghĩ đó là, mặc dù chính Tướng Trần Văn Đôn, Quyền Tham Mưu Trưởng và Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, hai nhân vật chủ chốt trong cuộc đảo chánh ngày 1. 11. 1963 đã cho Lucien O’Conein, sĩ quan CIA đại diện Đại Sứ Lodge bên cạnh các Tướng lãnh biết, việc kiểm soát một số Chùa là do thỉnh nguyện của các Tướng lãnh. Nhưng tin tức về vụ này, được phóng viên các hãng thông tấn của Hoa Kỳ gởi ra ngoài, thì lại chỉ nói đến cuộc kiểm soát Chùa tại Sài Gòn, và được nhấn mạnh điểm: Do Lực Lượng Đặc Biệt, một Lực Lượng trung thành với Tổng Thống Diệm thực hiện theo lệnh của ông Ngô Đình Nhu, còn Quân Đội không can dự vào vụ này. Trong khi, ngoại trừ mấy Chùa tại Sài Gòn, ở tất cả các nơi khác, cuộc kiểm soát này đều do Quân Đội thực hiện. Ngoài ra, họ cũng đã không hề nói đến những yếu tố:
- Chỉ có 14 trong 4766 ngôi Chùa lớn nhỏ trong toàn miền Nam bị kiểm soát.
- Tình hình sinh hoạt khi ấy tại 14 ngôi Chùa này thực sự là những hoạt động công khai khích động, kêu gọi dân chúng nổi lên chống lại Chính Phủ, không còn là những Chùa để dùng cho việc thờ phụng đích thực nữa.

PN99
03-12-2009, 19:35
Chương 2.7



MỘT SỐ SỰ KIỆN CẦN ĐƯỢC GHI LẠI


Để quý độc giả có thêm yếu tố nhận xét về biến động được gọi là "Cuộc Tranh Đấu của Phật Giáo Chống Lại Chính Sách Kỳ Thị Tôn Giáo" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, do một nhóm Phật Tử quá khích được Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo xướng xuất, tôi thấy cần ghi lại một số sự kiện sau đây:
1. - Dịp Tết năm 1961, tôi đến chúc tuổi Cụ Ưng Trạo, đang nói chuyện với Cụ thì bé con nuôi của Cụ, cháu Vĩnh Thao, đi ngang qua, chỉ vào nó Cụ nói:
"Bữa qua bố nó, ông Hoàng Hữu Khác, (Ông Khác Chánh Án Tòa Án Huế, Thư Ký Hội Phật Giáo Thống Nhất Thừa Thiên) đến thăm tôi cho biết, ông mới đọc được thơ của Thượng Tọa Thích Trí Độ từ Hà Nội gửi cho Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thư Ký Hội Phật Giáo Thống Nhất Thừa Thiên, chỉ thị phải tìm cách tổ chức một phong trào Phật Giáo chống Tổng Thống Diệm. Sợ bị liên lụy khi chuyện xảy ra, ông ta đã xin từ chức Thư Ký và ra khỏi Ban Trị Sự".
2. - Báo La Pravda xuất bản tại Moscow, số ra ngày 25. 10. 1963, loan tin về một Hội Nghị Quốc Tế Phật Giáo Thế Giới họp tại Bắc Kinh để hỗ trợ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Miền Nam Việt Nam như sau:
"Hội Nghị Quốc Tế Phật Giáo Thế Giới họp trong ba ngày tại Bắc Kinh, dưới sự bảo trợ của: Ủy ban quốc gia vì hòa bình của Cộng hòa nhân dân Trung quốc. Ủy ban liên đới Phi-Á Châu. Ủy ban hợp tác văn hóa và ủy ban thống nhất Phật Giáo (Trung cộng), để hỗ trợ cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam, với sự tham dự của các phái đoàn đến từ mười nước: Trung cộng, Cam Bốt, Indonesia, Nhật, Bắc riều Tiên, Lào, Nepal, Pakistan, Thái lan, Bắc và Nam Việt Nam, được coi là một biến cố lớn nhằm đưa ra đầy đủ những tội ác của ông Ngô Đình Diệm và người em, ông Nhu, đã gây nên. Và nhà Sư Thích Thiện Hào, đại diện miền Nam Việt Nam trong Hội Nghị này tuyên bố rằng, ông Diệm và người em, ông Nhu, đã giết 159.000 người, tra tấn thành tàn tật suốt đời 672.000 người, biệt giam 370.000 Phật Giáo đồ, đốt Chùa Từ Đàm và Chùa Xá Lợi, và đích thân đến kiểm soát Chùa Xá Lợi, nơi được coi là địa điểm chống lại sự đàn áp của chế độ Diệm mạnh nhất". (Les Relations Americano-Vietnamienes. Tập I . Trang 113)
3. - Trong cuộc tiếp kiến Phái Đoàn Điều Tra của Liên Hiệp Quốc, ông Ngô Đình Nhu đã trình bày với Phái Đoàn:
". . . Cộng sản tổ chức đưa cả toàn xã vào Thiên Chúa Giáo rồi dùng cái lối ấy xâm nhập vào trong xứ. Tín đồ Phật Giáo khi thấy nhiều xã vào Thiên Chúa Giáo thì lại tưởng là áp bức của Chính Phủ. Nhưng khi đọc các tài liệu người ta mới thấy như thế, và Chính Phủ không khi nào khuyến khích điều ấy, vì đó là cộng sản trá hình. Sự kiện này gây cho chúng tôi thiệt hại nhiều vào năm 1960 khi chiến tranh phá hoại phát khởi. Những xã nói trên đứng lên chống lại chúng tôi. Chính Phủ Diệm xích mích với Hàng Giáo Phẩm Gia Tô về phong trào rửa tội toàn khối ấy. Lực lượng an ninh phải canh chừng những xã ấy nhiều hơn xã khác". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 54)
4. - Trong cuộc hội kiến với Phái Đoàn Điều Tra của Liên Hiệp Quốc, ông Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương đã trình bày:
". . . Bây giờ tôi muốn nói rõ một vài điểm. Thông Tư đề ngày 6 tháng 5 đã đến Huế ngày 7 tháng 5. Tôi cũng đến Huế lúc 10 giờ sáng ngày hôm ấy, và nửa giờ sau, các nhà sư lãnh đạo Phật Giáo yêu cầu được gặp tôi để nghe giải thích về nội dung và lý do của Bản Thông Tư ấy. Tôi đã giải thích đầy đủ, và tôi cũng đã chỉ thị cho chính quyền địa phương khoan thi hành, trong hiện tại, Thông Tư ấy. Khi từ sân bay đến Thị Xã Huế, tôi đã nhận thấy cờ xí đã treo lên theo quy định (thông lệ) từ trước khi bản Thông Tư ra đời, cho nên không thể bắt hạ cờ xuống ngay trong một hôm. Các nhà lãnh đạo rất sung sướng nghe tôi nói, và bảo rằng tôi đã làm cho họ hoàn toàn thỏa mãn. Cờ Phật Giáo và Quốc Kỳ đã treo lên trước ngày lễ ba hôm rồi, cho nên không có một biện pháp nào có thể bắt buộc người ta phải theo những thể thức mà chính tôi, với tư cách Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đã Thông Tư.
Sau khi trở về Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, tôi được tin những vụ lộn xộn đẫm máu xảy ra ở Huế. Tôi vô cùng ngạc nhiên và tôi lại trở ra huế. Tôi tự hỏi tại sao lại có những vụ lộn xộn như thế, trong khi các vị Thượng Tọa đã đoan chắc với tôi là họ đã thỏa mãn. Lúc ấy tôi không thể hiểu được, nhưng về sau khi bắt giữ vài ba người, tôi nhận được tờ tự khai tay của ông Đặng Ngọc Lựu, cộng tác viên thân cận của nhà sư Thích Trí Quang viết ra, tôi đọc tờ khai ấy và tôi đã hiểu. . . trong tờ khai ông ta nói rõ rằng cuộc âm mưu (do đó mới có chữ "âm mưu" dùng trong bản tài liệu) do Việt Cộng dựt giây này, đã được chuẩn bị và thỏa thuận từ năm 1960". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 71)
5. - Ngay sau khi xảy ra những biến cố, trước và trong ngày Lễ Phật Đản tại Huế năm 1963, một luồng dư luận được loan truyền rất nhanh trong Thành Phố Huế và các Tỉnh lân cận nói rằng: Đức Cha Ngô Đình Thục và kỳ thị tôn giáo và tham vọng lên chức Hồng Y, không muốn thấy cờ Phật Giáo được treo quá nhiều, đã bắt Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh triệt hạ và cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Lễ Phật Đản.
Trong khi đó tại miền Nam, dư luận lại nói: Ngoài miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Lễ Phật Đản.
Tôi đã được nhiều người hỏi như vậy. Và trong Thực Trạng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam, nơi trang 263, vừa được trích dẫn ở một đoạn trên, tác giả Lâm Thành Nĩ cũng ghi như thế.
6. - Trước khi cuộc đảo chánh 1. 11. 1963 bùng nổ chừng một tháng, một nguồn tin rất giá trị cho biết:
Khi tiếng súng đảo chánh nổ, nhóm "Phật Giáo Tranh Đấu" sẽ giết Đức Cha Ngô Đình Thục.
Để tránh hậu quả không thể lường được khi xảy ra việc một vị Tổng Giám Mục Công Giáo bị giết bởi một nhóm người "mang danh Phật Giáo" Đức Cha Thục được khuyến cáo và Ngài đã rời Việt Nam khoảng 10 ngày trước khi cuộc đảo chánh xảy ra.
Người được biết rõ về nguồn tin này là Linh Mục Trần Đức Huynh, hiện cư ngụ tại Thành Phố Graden Grove, Orange County, California.
7. - Thiếu Tá Đặng Sỹ, trong thời gian bị giam tại lao xá Thừa Thiên (Huế), hai ông Tướng Đỗ Mậu và Nguyễn Chánh Thi đã từng vào nhà giam bảo ông: "Anh cứ khai là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho anh giết Phật Tử thì anh sẽ được tha ngay".
8. - Một hôm Linh Mục Hoàng Quỳnh đến dưỡng đường của Bác Sĩ Tài trên Đường Công Lý Sài Gòn, thăm Thượng Tọa Trí Quang đang bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ quản thúc tại đây. Sau khi thăm hỏi chừng 10 phút tại phòng Thượng Tọa Trí Quang nằm, hai vị cùng qua thăm Thượng Tọa Thiện Minh bên Trung Tâm Thanh Niên Phật Giáo gần đó. Ngồi trong xe trên đường đến Trung Tâm Thanh Niên, khi hai vị thảo luận về tình hình đất nước và các phong trào đấu tranh, Linh Mục Hoàng Quỳnh hỏi Thượng Tọa Trí Quang:
- Thượng Tọa này, sao trong phong trào của Thượng Tọa có vẻ có nhiều Việt Cộng trà trộn quá vậy?
Thượng Tọa Trí Quang trả lời:
- Tôi cũng biết vậy mà không mần chi được. Lúc đầu mình chỉ tính lợi dụng họ, nhưng khi họ vô đông quá rồi mình chịu, không xoay trở chi được nữa.
Người tháp tùng và lái xe đưa Linh Mục Hoàng Quỳnh và Thượng Tọa Trí Quang đi hôm ấy, đã được nghe rõ câu đối đáp trên đây là Cụ Nguyễn Văn Bách, hiện cư ngụ tại Thành Phố Wesminster, Orange Couty, California.
Sự kiện này cũng được Đại Đức Thích Đức Nghiệp, phát ngôn viên chính thức của phong trào "tranh đấu mang danh Phật Giáo" năm 1963 xác nhận với ông Đặng Đức Khôi, nguyên Thứ Trưởng Bộ Thông Tin thời Đệ II Cộng Hòa, tại Trường Đại Học Columbia năm 1965:
"Một số người tranh đấu như Thích Trí Quang đã nhờ sự trợ lực của cộng sản để mau đạt được mục đích cuối cùng của họ". (Vietnam our Nightmare. Trang 184)
9. - Một vị Phật Tử lão thành, định cư tại Hoa Kỳ năm 1981, hiện cư ngụ tại Thành Phố Irvine, Orange, California cho biết:
Thời gian còn ở lại Việt Nam sau năm 1975, Cụ được gặp lại người em họ tập kết ra Bắc khi thi hành Hiệp định Geneva. Sau này xâm nhập miền Nam anh là một cán bộ cao cấp đã từng giữ chức vụ quan trọng của cộng sản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Khi chính quyền cộng sản bắt đầu áp dụng chính sách kiểm soát gắt gao gây nhiều khó khăn cho các tôn giáo, một hôm anh đến thăm Cụ, Cụ hỏi:
- Cậu nè, Phật Giáo trong Nam này đã có công nhiều với các anh. Theo tôi, cuộc tranh đấu của họ đã đem lại cho các anh nhiều thuận lợi để dành chiến thắng. Răng bây giờ các anh lại đối xử với họ tệ như rứa?
Và Cụ được anh trả lời:
- Phật Giáo trong ni mà tranh đấu cái chi! Anh có biết không, trước đó 2 năm chúng tôi đã cho 200 công an cạo đầu, vào Chùa Quán Sứ học kinh, học cách sống của các nhà Sư, rồi đưa vô Nam phục sẵn trong một số Chùa.
Sau ngày 30.4.1975, số công an này đã được tập trung ăn mừng liên hoan tại Chùa Vĩnh Nghiêm Sài Gòn.
Vì vấn đề an ninh của nguồn tin còn ở Việt Nam, theo lời yêu cầu của Cụ, chúng tôi rất tiếc chưa thể tiết lộ danh tánh của nguồn tin.
Một điều đáng lưu ý là con số 200 công an được tiết lộ trên đây phù hợp với số hơn 200 người cạo đầu mặc áo tăng sĩ, bị bắt trong cuộc kiểm soát một số Chùa đêm 20. 8. 1963, mà cho đến khi cuộc đảo chánh 1. 11 bùng nổ, Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo cũng như các Chùa không nơi nào nhận lãnh, vì không có lý lịch của họ.
10. - Nhân chứng số 8, một học tăng 19 tuổi, được Phái Đoàn Điều Tra Liên Hiệp Quốc tiếp xúc, khi được ông Trưởng Phái Đoàn hỏi, xuất gia năm nào, vị học tăng này đã khai:
"Vào tháng 3 năm 1962. Đến tháng 7 năm ấy tôi đến Sài Gòn và Thượng Tọa Thích Trí Quang đã quyết định gửi tôi đến Chùa Long Phước ở Bến Tre, Tỉnh Bình Định (trong tiếng Anh ghi là Bến Tra, có lẽ là Bến Đá), để tu học. Vào tháng 5. 1963 tôi được về trụ sở Tổng Hội ở Sài Gòn. Tôi ở Chùa Xá Lợi để hầu hạ chư tăng. Chính ở đây tôi được nghe đến 5 nguyện vọng của Phật Giáo đồ. Ngày 30 tháng 5, tôi tham dự trong một cuộc biểu tình của Phật Giáo tại Sài Gòn và sau đó tôi về Chùa Xá Lợi. Trong đêm 20. 8 tôi đến Chùa Ấn Quang và bị bắt vào lúc 1 giờ sáng. Tôi bị giam giữ tại một nơi mà tôi không được biết. Nhiều vị Thượng Tọa ở Chùa Ấn Quang đến thăm tôi và điều đình với các giới chính quyền. Ngày hôm sau, tôi được trả lại tự do cùng với một số tăng ni khác. Tôi trở về Chùa Ấn Quang và gặp được nhiều vị tăng ni. Chính ở đây tôi gặp Thượng Tọa Thích Thiện Hoa và Thượng Tọa Thích Nhật Minh lúc bấy giờ là Chủ Tịch Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo thuần túy. Hai nhà Sư ấy đã tuyên bố là tất cả chư tăng phải trở về Chùa của mình, vì không thể nào nuôi ăn một số đông các tăng ni như thế trong một ngôi Chùa được. Chùa tôi ở xa, tôi xin ở lại Sài Gòn và tá túc tại Ni Cô Diệu Thanh, gần Chùa Ấn Quang. Trong thời gian ấy tôi được nghe nói đến những sự tàn bạo mà Chính Phủ đã khủng bố Phật Giáo đồ. Chẳng hạn tôi được nghe kể lại người ta đánh đập tàn nhẫn tăng ni, đập nát những bàn tay, ngâm dưới nước hay mổ bụng những người này. Tôi còn được biết là một số tăng ni bị bắt trở lại và một số khác bị bắt buộc phải ngưng hành đạo hay tự thiêu sống. Tin tức ấy khiến tôi phẫn uất.
Một ngày kia, trong lúc tôi đang ở Phạm gian (Đường Gia Long) một thanh niên tự xưng là hội viên Tổng Hội Sinh Viên đến nói chuyện và yêu cầu tôi gia nhập vào phong trào Phật Tử. Tôi bằng lòng vì cho đó là một dịp để phụng sự chánh pháp. Người sinh viên ấy hỏi địa chỉ của tôi. Tôi trả lời rằng tôi ở nhà một Ni Cô gần Chùa Ấn Quang. Ngày hôm ấy, người sinh viên ấy lại đến tìm tôi ở địa chỉ ấy và giao cho tôi một gói gồm 2 bộ quần áo. Anh ta bảo tôi Chính Phủ đang lùng bắt tăng ni. Anh ta lại thêm rằng nếu ra đường thì phải mặc một trong hai bộ quần áo ấy để người ta khỏi nhận ra mình là tu sĩ. Anh ta còn khuyên tôi nên đổi chỗ ở, tôi nên đến Chùa Từ Vân Đường Thái Lập Thành ở Gia Định để tránh sự dòm ngó của chính quyền. Vì thế tôi đến ở Chùa Từ Vân vào ngày 20 tháng 10. Đến ngày 22. 10, người sinh viên lại đến tìm tôi và tự giới thiệu là Linh. Anh ta cho biết Tổng Hội Phật Giáo đã thay đổi danh hiệu và các chi nhánh. Tổng Hội mới này làm việc cho cộng sản. Ngày 23.10 người ta đưa tôi đi Taxi lên Đường Chi Lăng ở Phú Nhuận vào trong một hồ tắm để gặp hai người. Một trong hai người này tên là Thanh và người kia là một nhà Sư cải trang và đội một chiếc nón bằng ni lông. Họ rất vui sướng được biết tôi và cho tôi biết tin một Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc nay mai sẽ đến Việt Nam để điều tra về mối giao thiệp giữa Chính Phủ và Phật Giáo đồ. Vì thế họ cần 10 người tình nguyện và hỏi tôi có muốn tham gia không. Quá phẫn uất về cách đối xử của chính quyền với tăng ni, tôi đã nhận lời vì nếu không số phận tôi cũng chẳng khác gì số phận của các tăng ni ấy. Họ nói tôi sẽ được chết vì chánh pháp. Họ rất vui sướng khi nghe tôi nhận lời. Họ còn cho biết một Sư tên là Thiện Mỹ sẽ tự thiêu trước Nhà Thờ Tân Định trên Đường Hai Bà Trưng, Họ yêu cầu tôi tự thiêu ngay trong ngày Lễ Quốc Khánh vì hôm ấy có đông đủ mọi người ngay cả các đại diện của Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc. Tôi hỏi làm thế nào có thể vào khu vực cấm ấy được. Họ bảo tôi đừng lo sợ, một nhóm người phụ trách ủng hộ sự tự thiêu đã có những bố trí thích đáng cho tôi. Tôi hỏi bố trí như thế nào thì họ trả lời đến ngày 16. 10, tôi sẽ nhận được một bộ đồ trắng và một chiếc áo cà sa vàng có tẩm xăng. Họ sẽ giao tôi một chiếc xe hơi có treo cờ để vào khu vực cấm. Đến nơi, tôi sẽ tự nhiên bước xuống xe do một người tài xế lái. Đoạn tôi ngồi xuống tự nhiên, mặc chiếc áo cà sa vào, quẹt diêm và châm lửa đốt quần áo. Trước khi ấy, người ta sẽ cho tôi một vài viên thuốc không sợ đau đớn. Xong xuôi, họ bảo tôi về và cho tôi 100 đồng để trả tiền xe. Ngày 24. 10, người sinh viên lại đến Chùa Từ Vân giao cho tôi ba bức thư, một gởi cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Bức thư ấy yêu cầu Chính Phủ thực hiện sự tự do tín ngưỡng và phóng thích những tăng ni đã bị giam giữ. Bức thư thứ hai gửi Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, trụ trì Chùa Ấn Quang, kết tội Thượng Tọa đã phản bội tăng ni và tín đồ Phật Giáo. Bức thứ ba gửi Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc cho họ biết lý do tôi tự thiêu. Những bức thư ấy đã được viết trước và họ yêu cầu tôi ký vào. Tôi không ngần ngại và ký vào trong tất cả ba bức thư. Người ta lại còn cho biết đến ngày 25.10 vào buổi sáng, lực lượng Cảnh Sát đến bắt tôi trước khi người sinh viên đến dẫn tôi đi. Trong xe Cảnh Sát, tôi thấy tên Hải người mà tôi đã quen trước kia ở Chùa Xá Lợi. Vào ngày 23 tôi có gặp hắn tại Đường Chi Lăng. Lúc ấy, chúng tôi có chuyện trò với nhau và tôi có nói là sau ngày 26 tôi sẽ không còn gặp hắn nữa. Đến lúc xe đến Đồn Cảnh Sát, tôi mới hiểu rằng chính hắn đã tố cáo tôi với Cảnh Sát. Họ giam tôi trong một căn phòng, xong đem tôi ra và giải thích là chính quyền không giết một vị Sư nào, không có một sự tàn bạo nào đã xảy ra và tất cả những câu chuyện trước kia đều là bịa đặt. Tôi biết bị lầm đường, và bây giờ tôi hiểu rõ tình thế. Về những âm mưu vừa qua, tôi có gửi cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa xin lỗi ông và giải thích về bức thư tôi gửi đến cho ông, Tôi cũng gửi một bức thư đến Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc. Bây giờ tôi đã nhận thấy rõ ràng tình thế, nên không còn ý định tự thiêu nữa. (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 127)
11. - Mấy ngày sau khi cuộc đảo chánh 1. 11. 1963 thành công, một số sinh viên bị giữ trong các cuộc biểu tình bạo động trong những ngày trước đó được trả tự do. Họ được triệu tập đến Bộ Tổng Tham Mưu để được Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Tướng Lãnh tiếp kiến, dưới sự hướng dẫn của một sĩ quan thuộc Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu. Trong khi Tướng Minh đang tiếp số sinh viên trên đây thì ông nhận được báo cáo khẩn cấp:
Có một đám đông kéo đến bao vây đòi tràn vào phá Nha Tuyên Úy Công Giáo, tọa lạc trên Đường Phan Thanh Giản, giáp Đường Hai Bà Trưng. Tướng Minh nhận được báo cáo vẫn thảm nhiên, không có phản ứng gì. Thấy vậy một sinh viên đứng lên nói:
"Đề nghị Trung Tướng bằng mọi cách phải ngăn chận ngay việc này, nếu không, nó sẽ gây nên hậu quả vô cùng nguy hiểm có thể đưa đến một cuộc chiến tranh tôn giáo".
Tướng Minh ngập ngừng một lúc, nhưng sau đó đã ra lệnh cho lực lượng an ninh phải bảo vệ Nha Tuyên Úy Công Giáo và giải tán đám đông.
12. - Tháng 6 năm 1964, Tòa soạn Nhật Báo Xây Dựng do Linh Mục Nguyễn Quang Lãm làm Chủ Nhiệm, khi ấy còn tọa lạc tại góc Đường Bùi Chu-Bùi Thị Xuân, và Trường Nguyễn Bá Tòng bên cạnh, bị một đoàn khoảng hơn 200 thanh niên hầu hết chỉ mặc một quần xà lỏn kéo tới bao vây. Nhiều lần chúng định xông vào đập phá nhưng không vượt qua được dãy tường bao xung quanh hai cơ sở này. Trước thái độ bất can thiệp của Cảnh Sát trước hành động bạo loạn của nhóm người này, đồng bào Công Giáo di cư tại khu vực Hố Nai và Ông Tạ phải đến can thiệp giải vây. Hai bên xô xát, một thanh niên bên phe "tranh đấu" bị tử thương vì trúng một mũi lao của phe giải vây. (lối đánh các băng cướp của dân quê miền Bắc) Xác thanh niên này được đưa về quàn tại Viện Hóa Đạo Đường Trần Quốc Toản. Đám táng được tổ chức rất long trọng, có cả vòng hoa và lời phân ưu rất trân trọng của Thủ Tướng Nguyễn Khánh.
Cụ Nguyễn Văn Bách là một trong những người ở trong Tòa Báo Xây Dựng để đối phó với nhóm "tranh đấu" suốt thời gian bị nhóm này vây hãm.
13. - Thời gian này, tại một số Thành Phố như Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế và tại các Tỉnh được chính quyền Quốc Gia tiếp thu sau khi Hiệp định Geneva được thi hành như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, tình trạng hỗn loạn ngày càng thêm trầm trọng. Những tin thất thiệt được tung ra nhằm khích động đám quần chúng của hai tôn giáo Công Giáo và Phật Giáo, lan tràn khắp nơi.
Ở khu này người ta nghe: Tối nay dân Công Giáo sẽ đến phá Chùa này, đánh Chùa kia.
Qua khu khác người ta lại nghe: Nhóm "Phật Giáo Tranh Đấu" đang chuẩn bị tối mai sẽ kéo đến phá Nhà Thờ nọ, đốt xóm Đạo kia.
Và thế là tín đồ hai bên đều vội vàng chuẩn bị khí giới, gậy gộc, dao búa sẵn sàng nghênh chiến, đối phó bảo vệ Nhà Thờ, canh giữ Chùa chiền.
14. - Tôi được cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng, Chánh Sở I An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng sau ngày 1. 11. 1963 kể lại: Tháng 6. 1964, Trung Úy Quận Trưởng Quận Duy Xuyên, Tỉnh Quảng Nam, khám phá được một tổ chức Việt Cộng, bắt được một số cán bộ. Trong số cán bộ này có hai tên là Khuôn Hội Trưởng Hội Phật Giáo tại địa phương, với đầy đủ tài liệu và vũ khí.
Nhận được báo cáo, Đại Tá Ngô Dzu, (sau này là Trung Tướng), Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và Khu 12 Chiến Thuật, đến khen thưởng gắn huy chương cho các Quân Nhân đã lập được công trạng.
Một sự ngẫu nhiên không may đối với tình hình lúc ấy là, cả Đại Tá Ngô Dzu và Trung Úy Quận Trưởng đều là tín đồ Công Giáo. Dựa vào yếu tố này, phe mang danh "Phật Giáo Tranh Đấu" tại Đà Nẵng do Phạm Xuân Huy và Hoàng Văn Giàu điều khiển la ầm lên:
Bọn Cần Lao Công Giáo tàn dư chế độ cũ "trả thù Phật Giáo". Mặc dầu cả hai đều do chính quyền "cách mạng" của các Tướng đảo chánh bổ nhiệm. (Huy sau này là Dân Biểu Quốc Hội. Giàu bị động viên, được biệt phái về Cục An Ninh Quân Đội)
Và trong một cuộc biểu tình rầm rộ sau đó, họ đã cho một nhóm vào tận Quận Duy Xuyên bắt Trung Úy Quận Trưởng, đem về giam tại Hội Trường Thành Phố Đà Nẵng.
Điều may mắn là mặc dầu bị nhiều sách động, nhưng đại đa số cá nhân cũng như đơn vị Quân Đội vẫn còn duy trì được tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và bảo vệ danh dự chung. Nhờ vậy, Trung Tá Đỗ Ngọc Nhận, có cấp bậc sau cùng là Đại Tá, hiện cư ngụ tại Tiểu Bang Texas, Hoa Kỳ, Tư Lệnh Phó của Đại Tá Ngô Dzu, khi đấy đang chỉ huy hai Trung Đoàn hành quân tại Tỉnh Quảng Tín. Khi được tin về sự lộng hành của nhóm "tranh đấu" đối với một sĩ quan, Trung Tá Nhận liền gửi một Công Điện cho Tướng Tôn Thất Xứng, Tư Lệnh Quân Đoàn I nội dung đại ý:
"Vì màu cờ sắc áo, vì danh dự Quân Đội, thỉnh cầu Thiếu Tướng Tư Lệnh giải quyết gấp vụ nhóm "tranh đấu" bắt giữ Trung Úy Quận Trưởng Duy Xuyên. Nếu sau 48 tiếng đồng hồ vụ này không được giải quyết, chúng tôi, hai Trung Đoàn hiện đang hành quân sẽ rút về Đà Nẵng tự giải quyết".
Nhận được Công Điện, Tướng Xứng đã cho mời một số nhân sĩ tại Đà Nẵng và đại diện nhóm "tranh đấu" đến dàn xếp. Tướng Xứng cũng cho họ biết thái độ cứng rắn và đoàn kết của hai Trung Đoàn dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nhận.
Kết quả là Trung Úy Quận Trưởng Duy Xuyên được trả tự do và trở về nhiệm sở trước thời hạn 48 tiếng đồng hồ.
15. - Tiếp đến là vụ đánh phá và thiêu rụi hai làng của dân Công Giáo di cư từ Tỉnh Quảng Bình vào định cư tại Đà Nẵng, hai Làng Thanh Bồ và Đức Lợi, xảy ra vào tháng 8 năm 1964. Vụ tàn phá hai làng trên đây đã gây chấn động trong toàn quốc. Những người thường lưu tâm đến thời cuộc lúc ấy, đã thực sự lo ngại và nghĩ rằng, nhân dân miền Nam khó lòng tránh khỏi bị sập vào cái bẫy "chiến tranh tôn giáo" Và nếu tình trạng ấy xảy ra thì chỉ một sớm một chiều, miền Nam sẽ lọt vào tay cộng sản Bắc Việt.
Để được biết rõ sự thật về vụ này, tôi đã tìm gặp cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng, người đã được, nói đúng hơn, đã bị Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng (hiện cư ngụ tại Canada) Tư Lệnh Quân Đoàn I khi ấy, bắt bằng mọi cách phải vào Thanh Bồ, Đức Lợi, lấy ra cho được 5 học sinh bị dân làng bắt giữ. Để giải quyết vụ tranh chấp giữa nhóm "tranh đấu" và dân hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi, cách ôn hòa.
Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng là sĩ quan Ngành An Ninh Quân Đội, từng làm việc dưới quyền Tướng Đỗ Mậu được ông rất tin dùng và quý mến. (Cựu Trung Tá Ứng mất năm 2000 tại Orange County, Carlifornia)
Khi xảy ra vụ Thanh Bồ, Đức Lợi, cựu Trung Tá Ứng đang giữ chức vụ Chánh Sở I An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng, cấp bậc Thiếu Tá. Tôi đã được ông cho ghi âm lời tường thuật chi tiết về vụ này như dưới đây:
"Hôm ấy là ngày thi của các học sinh Trung Học. Đoàn biểu tình của nhóm "tranh đấu" phát xuất từ Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, kéo qua Trường Trung Học Phan Chu Trinh bắt các học sinh đang thi tham gia. Họ kéo đi trên đường bờ sông Đà Nẵng. Khi đi ngang qua một Câu Lạc Bộ của Quân Đội Mỹ đối diện với hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi, một số người trong đoàn biểu tình đã ném đá vào Câu Lạc Bộ. Thấy vậy, một lính Mỹ đứng trên lan can bắn mấy phát súng chỉ thiên. Đoàn biểu tình chạy nhào qua phía hai làng đối diện. Một số đông đã vào sâu trong làng.
Dân hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi sống bằng nghề chài lưới. Vì thế, ban ngày đàn ông, trai tráng đều đi đánh cá ngoài biển hoặc trên sông. Ở nhà chỉ còn hầu hết là đàn bà và trẻ con. Nghe súng nổ, lại thấy đoàn biểu tình ồ ạt kéo vào làng, họ kéo nhau chạy xuống hầm trú ẩn mà nhà nào cũng có sẵn để tránh pháo kích của Việt Cộng. Đồng thời họ nổi hiệu báo động gọi những người đang đánh cá trở về.
Khi đoàn biểu tình ào vào làng đã làm sập hầm của một gia đình, gây thương tích cho mấy em bé nấp ở bên dưới.
Trong số dân có mặt ở trong làng lúc đó có Chuẩn Úy Phú, nhân viên Sở I An Ninh Quân Đội. Vì cảnh hỗn loạn thường xảy ra ở Thành Phố Đà Nẵng trong thời gian ấy, Chuẩn Úy Phú đã đem về nhà mấy trái lựu đạn và một khẩu súng lục P. 38 cốt để phòng thân. (ông Phú hiện ở Thành Phố Graden Grove) Nghe tiếng la hét có người bị thương, lại thấy đoàn biểu tình kéo vào làng càng lúc càng đông, Chuẩn Úy Phú bắn mấy phát súng chỉ thiên để chận lại. Vừa lúc ấy, đám đàn ông con trai tráng từ ngoài sông, biển trở về, thấy cảnh hỗn loạn, lại có người bị thương, họ liền phản ứng. Đoàn biểu tình rút ra, nhưng có 5 em học sinh bị dân làng bắt giam làm con tin.
Trở về điểm xuất phát, đoàn biểu tình mới biết thiếu mất 5 em học sinh. Họ liền huy động đám đông trở lại vây Tòa Thị Chính và hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi. Đồng thời Phan Xuân Huy và Hoàng Văn Giàu, hai người chỉ huy đoàn biểu tình, đến gặp Tướng Tôn Thất Xứng Tư Lệnh Quân Đoàn, yêu cầu giải quyết trả 5 học sinh về cho họ.
Gần 12 giờ trưa, Tướng Xứng gọi tôi (Trung Tá Ứng) đến văn phòng ra lệnh bắt tôi bằng mọi cách phải vào Thanh Bồ, Đức Lợi can thiệp lãnh 5 em học sinh về trả cho đoàn biểu tình. Tôi thấy trong văn phòng Tướng Xứng lúc ấy có hai Đại Tá, Nguyễn Văn Thiện, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn và Hải Quân Đại Tá Lê Quang Mỹ, Thị Trưởng, là những người trực tiếp có trách nhiệm về vấn đề an ninh tại địa phương. Tôi xin được miễn thi hành lệnh này đồng thời yêu cầu Tướng Xứng giao nhiệm vụ ấy cho các vị có trách nhiệm. Nhưng Tướng Xứng nói với tôi: "Toa là người duy nhất có thể giải quyết được vụ này. Nếu toa từ chối thì 4 giờ chiều hôm nay chúng nó sẽ thánh chiến".
Lúc này tôi chưa hiểu câu nói của Tướng Xứng. Không từ chối được, tôi đã yêu cầu ông: Nếu Thiếu Tướng bắt buộc tôi phải làm việc này thì, xin cho hai Đại Tá Thiện và Mỹ cùng đi với tôi, để mọi quyết định của tôi tức là quyết định của Thiếu Tướng. Tránh những sự xuyên tạc, gây hiểu lầm có thể đưa đến hậu quả tai hại sau này.
Lời yêu cầu của tôi được Tướng Xứng chấp thuận. Nhưng trước khí thế quyết ăn thua của hai phía, đoàn biểu tình và dân hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi, tôi cần phải được một chức sắc của Phật Giáo và một vị của Công Giáo cùng đi, mới có thể đi qua được đoàn biểu tình và vào được hai làng này. Tôi đến mời Đại Đức Thích Minh Chiếu Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo Quân Đoàn và Linh Mục Lê Văn Ấn, Cha Sở Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Nẵng, sau này là Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc, và được hai vị vui vẻ nhận lời cùng đi với chúng tôi.
Trên đường đi đến Thanh Bồ, Đức Lợi, tôi lái xe, Cha Ấn ngồi ở giữa, nhường ghế phía ngoài cho Đại Đức Tuyên Úy Phật Giáo, hai Đại Tá ngồi phía sau. Khi xe đi qua được nửa đoàn biểu tình, thình lình có mấy người nhào tới nói với Đại Đức Tuyên Úy: "Thầy không được vào trong đó. Thầy vào chúng nó sẽ giết Thầy" và họ bồng ông chạy đi mất. Mọi người trong xe còn chưa hết ngỡ ngàng và Cha Ấn vừa ngồi xích ra ghế mới bỏ trống thì từ trong đoàn biểu tình đánh vào trong xe một tảng đá mỗi bề chừng 30 cm, trúng ngay hộp số xe (xe jeep) chỗ Cha Ấn để chân lúc còn ngồi ở giữa. Thấy tình hình quá gay cấn và nguy hiểm, hai vị Đại Tá và Cha Ấn yêu cầu tôi trở lui.
Khoảng 5 giờ chiều, có lẽ vì mệt mỏi, nhóm biểu tình vây hai làng chỉ còn lại lưa thưa ít người. Tôi liền đi mời các vị đã cùng đi buổi trưa tiếp tục trở lại Thanh Bồ, Đức Lợi, nhằm giải quyết cho xong vấn đề. Nhưng tất cả đều vắng mặt, ngoại trừ Cha Ấn.
Khi tôi và Cha Ấn đến gần Thanh Bồ, Đức Lợi thì thấy Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh đem Tiểu Đoàn Nhảy Dù của Thiếu Tá Nguyễn Thế Quang từ Huế vào, đang dàn quân bao vây hai làng. Ông cho bắc máy phóng thanh ra lệnh cho dân trong làng phải mở cổng làng, và bỏ hết súng ống đạn dược xuống, nếu không đơn vị Dù sẽ vào bắt hết. Tôi vội báo cáo về cho Tướng Xứng biết tình hình lạ lùng và bất thường này. Ông chỉ thị cho tôi mời Đại Tá Thi về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn gặp ông. Khi tôi tới gặp Đại Tá Thi chuyển lệnh của Tướng Xứng, ông liền văng tục trước mặt tôi và không đếm xỉa gì đến lệnh của Tư Lệnh Quân Đoàn.
Lúc đó lính Dù chỉ bao vây bên ngoài hai làng, không có hành động gì. Tôi và Cha Ấn tiếp tục đi vào trong làng. Sau khi dân làng nghe chúng tôi giải thích điều hơn lẽ thiệt, họ đã vui vẻ trao 5 em học sinh cho chúng tôi. Họ còn nấu cháo gà đãi các em trước khi trao cho chúng tôi đem các em về.
Ra khỏi Thanh Bồ, Đức Lợi, tôi lái xe đưa các em tới thẳng Tòa Thị Chính, đang bị khoảng vài chục ngàn người biểu tình vây quanh, đợi tin tức chuyến đi của chúng tôi. Đưa các em ra lan can trên lầu Tòa Thị Chính đã bố trí máy phóng thanh, tôi thông báo cho đám biểu tình: "Thay mặt cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tôi đã vào Thanh Bồ, Đức Lợi đem 5 em học sinh về đây. Để đồng bào được biết dân chúng hai làng đã đối xử với các em thế nào trong thời gian họ giữ các em, yêu cầu các em cử một người ra kể lại cho đồng bào rõ".
Một trong 5 em đã đứng ra kể lại: Suốt thời gian bị dân làng giữ, các em được đối đãi rất tử tế, ăn uống đầy đủ, trước khi về dân làng còn đãi cháo gà v. v. . . Nghe em nói, đoàn biểu tình tỏ ra hài lòng, họ hô lớn: Hoan hô Thiếu Tá. Nhưng tiếng hoan hô vừa dứt thì có tiếng la lên: Đả đảo học sinh giả! Vừa lúc ấy trời đổ mưa lớn, đám biểu tình tự động giải tán.
Tôi cũng như các giới chức có mặt tại Tòa Thị Chính lúc ấy cảm thấy như vừa trút bỏ được một vật gì quá nặng, đè trên ngực chúng tôi suốt ngày hôm ấy cho đến giờ này. Mọi người ra về với cảm giác nhẹ nhõm và tất cả đều nghĩ rằng ngày hôm sau sẽ được rảnh rang hơn. . . .
Đêm hôm ấy, Tiểu Đoàn Dù của Thiếu Tá Vũ Thế Quang theo lệnh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, án binh bất động bên ngoài hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi. Sáng hôm sau, được sự hỗ trợ của Đại Tá Thi, nhóm "tranh đấu" huy động được mười ngàn người, kéo đến đi theo Đại Tá Thi vào trong làng. Đại Tá Thi đi trước, họ theo sau, phá tan hoang nhà cửa rồi nổi lửa đốt cháy rụi hết. Điều may mắn là trong đêm hôm đó, thấy lính Dù vây làng như linh cảm trước sẽ xảy ra điều chẳng lành. Lợi dụng đêm tối họ đã lặng lẽ di tản sang khu Sơn Trà phía bên kia sông. Nhờ vậy mà không có thiệt hại nhân mạng.
16. - Cựu Trung Tá Ứng kể tiếp: "Sau vụ hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi bị tàn phá, người dân Công Giáo tại Đà Nẵng lo sợ không biết ngày giờ nào tai họa tương tự sẽ xảy ra với họ. Vì vậy họ cũng vội thành lập một "Ủy Ban Tranh Đấu Công Giáo" gồm bảy người, nhằm phối hợp hành động của các Họ Đạo trong khu vực, để có thể đối phó với tình hình đầy bất trắc lúc bấy giờ. Khi hay tin khối Công Giáo đã thành lập Ủy Ban Tranh Đấu, nhóm "tranh đấu mang danh Phật Giáo" sau khi tìm biết được tên tuổi của bảy người trong Ủy Ban, họ liền huy động một đoàn biểu tình đi lùng bắt bảy người này.
Vì mới được thành lập, chưa kịp phối hợp tổ chức gì ở các Họ Đạo, bảy người trong Ủy Ban Tranh Đấu Công Giáo đã phải vào xin ẩn tránh trong Tòa Giám Mục Đà Nẵng. Nhóm "tranh đấu mang danh Phật Giáo" biết đích xác được tên một trong bảy người đang ẩn tránh trong Tòa Giám Mục là anh Hoàng, chủ một tiệm may. Họ kéo tới bao vây đòi Tòa Giám Mục phải trao anh Hoàng cho họ, nếu không họ sẽ phá Tòa Giám Mục.
Thấy tình hình quá gay cấn trước thái độ hung hãm của nhóm "tranh đầu" và để tránh một cuộc đụng độ giữa khối Công Giáo và nhóm tranh đấu, Tòa Giám Mục cho Linh Mục Thư Ký ra dàn xếp. Được bảo đảm sẽ không làm gì nguy hại cho anh Hoàng, Linh Mục Thư Ký trở vào dẫn anh Hoàng ra trao cho họ. Nhưng vừa nắm được tay anh Hoàng, tức thì nhóm "tranh đấu" xúm lại dùng gạch đá, đánh anh chết ngay bên ngoài cổng Tòa Giám Mục".
17. - Dưới thời Tướng Nguyễn Khánh nắm quyền Thủ Tướng, khối Ấn Quang, qua mấy Bộ Trưởng trong khối của họ, đã đưa ra trước Hội Đồng Bộ Trưởng một dự thảo Sắc Lệnh đặt " Đảng Cần Lao" ngoài vòng pháp luật, yêu cầu thông qua để trình Thủ Tướng ký ban hành.
Mấy vị Bộ Trưởng không bị ảnh hưởng của Ấn Quang, thấy được sự nguy hiểm và những hậu quả không thể lường trước được sẽ xảy ra, nếu dự thảo được Tướng Khánh chấp thuận. Các vị này vội tin cho ông Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Trưởng Lao Động thời Đệ I Cộng Hòa biết. Ông Nghĩa đến trình bày sự việc với Bác Sĩ Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên. Bác Sĩ Viên cũng có cùng quan điểm với các vị Bộ Trưởng trên đây, nên ông đã thuyết phục Tướng Khánh không ký ban hành Sắc Lệnh này.
18. - Thời gian nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I. Tướng Nguyễn Chánh Thi đã làm văn thư xin Bộ Tổng Tham Mưu cho thành lập một "Đoàn Quân Phật Giáo".
Các sĩ quan có trách nhiệm nghiên cứu đề nghị của Tướng Thi, nhận thấy sự phi lý, phi nguyên tắc của việc thành lập một "quân đội" trong một "quân đội" nên họ đã đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu bác bỏ ý kiến của Tướng Thi.
Một sĩ quan trong Ban Nghiên Cứu này, là cựu Đại Tá Hồ Ngọc Tâm, khi ấy là Đại Úy Trưởng Ban Tư Pháp Phòng I Bộ Tổng Tham Mưu.
19. - Khi phong trào tranh đấu "mang danh Phật Giáo" tại miền Trung bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ quyết định dẹp. Có lẽ cảm thấy yếu thế, các vị lãnh đạo phong trào lại đến với khối Công Giáo để tìm hậu thuẫn. Tại Sài Gòn, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đến gặp Linh Mục Hoàng Quỳnh và Linh Mục Nguyễn Đức Nhuận. Tại Huế Thượng Tọa Trí Quang tìm gặp Linh Mục Tổng Giáo Phận Nguyễn Văn Thuận, tức Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, đề nghị khối Công Giáo hợp tác chống Thiệu-Kỳ.
Ông Võ Như Nguyện khi ấy ở Huế và Linh Mục Trần Đức Huynh ở Sài Gòn đều biết rõ về những cuộc gặp gỡ và đề nghị này.
20. - Nữ phóng viên Marguerite Higgins, trong tác phẩm "Our Vietnam Nightmare", Trang 271, kể lại chuyến đến thăm Việt Nam lần thứ hai của bà, kể từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tháng 11. 1964, Bà thấy nhiều dấu hiệu chứng tỏ tư thế của Thượng Tọa Trí Quang đang bị sói mòn. Nhưng bà lấy làm có ý nghĩa nhất, là việc Chùa Xá Lợi ly khai khỏi phong trào tranh đấu của nhóm Thượng Tọa Trí Quang. Các vị lãnh đạo Phật Giáo tại Chùa này cho bà biết, họ cực lực phản đối sự bạo động và âm mưu của nhóm quá khích và Ban Trị Sự Hội Phật Giáo đã quyết định trục xuất hai Thượng Tọa Trí Quang và Tâm Châu ra khỏi Chùa. Bà kể lại lời một vị cao tăng tại Chùa Xá Lợi nói với bà về sự lộng hành của Thượng Tọa Trí Quang như sau:
Chúng tôi cảm thấy ông ta (Thượng Tọa Trí Quang) đã phản bội Phật Giáo. Nếu người Mỹ biết chút ít về Phật Giáo, thì họ đã không bị lừa gạt mà nghĩ rằng, con người ấy không dùng tôn giáo của chúng tôi để làm một việc gì đó. Số người trẻ ca tụng Thích Trí Quang là anh hùng, là những người ngây thơ một cách tội nghiệp, họ không biết họ đang làm gì. Họ đang bị lợi dụng.
- Cái gì, tôi (Higgins) hỏi, có phải chắc chắn ngài muốn nói "phản bội Phật Giáo"?
- Có nhiều lý do để nói như vậy, vị cao tăng đáp lại. Đức Phật dạy chống lại hận thù. Đức Phật nói: "Hận thù phải giải hóa được hận thù. Hận thù phải giải hóa bằng yêu thương". Đó là giới luật vĩnh cửu. Cho dù những người khác không hiểu sự điên rồ của tranh đấu đi nữa, chúng tôi cũng phải tránh điều đó. Nhưng Thích Trí Quang đang làm công việc khơi động hận thù lên, vào lúc chúng tôi cần hàn gắn mọi vết thương thay vì tạo ra những vết thương mới. Thích Trí Quang đã khơi động hận thù bằng chiến dịch chống người Công Giáo và người chế độ Diệm. Nhưng người Phật Tử luôn hòa hảo với các tôn giáo khác. Chính Đức Thích Ca luôn coi mọi người khác niềm tin là anh em. Đức Thích Ca không đòi hỏi phải chấp nhận cách mù quáng giáo huấn của ngài và cũng không bao giờ lên án giáo huấn của người khác. Đức Thích Ca nói: "Hỡi tăng sĩ, ngay chính những lời của ta, các ngươi cũng đừng chấp nhận chỉ vì kính trọng ta. Các người phải khảo sát nó bằng những lý luận thật cứng rắn của các ngươi, như người thợ kim hoàn thử vàng bằng cách nung nó trong lửa". Chiến dịch hận thù của Thích Trí Quang chống lại giới luật của Đức Thích Ca. Về những người thuộc chế độ Diệm, bằng cách này hay cách khác, mọi người trí thức Việt Nam đều đã phục vụ Tổng Thống Diệm. Chính Thích Trí Quang cũng từng nhận những ân huệ từ Ngô Đình Cẩn, (em Tổng Thống Diệm) người đã cung cấp tiền bạc cho Chùa Từ Đàm. Đúng là ngụy thiện, khi gọi người khác là người của ông Diệm mà lại miễn trừ ông ta.
Đức Thích Ca cũng dạy rằng:"Sự thật là đức tính cao quý nhất". Nhưng Thích Trí Quang truyền bá sự phỉ báng, cũng rộng rãi như truyền bá sự hận thù. Nếu ông ta là một đạo hữu dốt nát, điều đó lại khác. Thích Trí Quang có trí thông minh. Ông ta biết mình hành động ngược với giới luật của Đức Thích Ca. Vì vậy chúng tôi rất nghi ngờ.
- Tại sao không đưa ra ánh sáng tất cả những điều này? Tôi (M. Higgins) hỏi, ngài có muốn tôi nêu rõ hoặc dùng tên ngài không? Có phải mọi người thuộc Chùa Xá Lợi mong muốn cho công chúng Hoa Kỳ biết sự thật không?
- Có nhiều lý do để sợ Thích Trí Quang, vị tăng sĩ trả lời. Ông ta đã sai những Phật Tử trẻ của ông ta đi đây đó, đánh đập nhiều người của chúng tôi chống đối ông. Và vì thế bề trên của chúng tôi đã cấm chúng tôi liều lĩnh gánh chịu sự giận dữ của ông ta. Nhưng một ngày nào đó mọi người sẽ nhận ra sự thật. Ông ta đã làm cho nhiều Phật Tử xa lánh rồi.
21. - Trong Bạch Thư được Hòa Thượng Thích Tâm Châu ký tại Chùa Phật Quang, Úc Châu, phổ biến ngày 31 tháng 12 năm 1993 dưới số 729-VP-TT, nói "VỀ VẤN ĐỀ CHIA RẼ CỦA ẤN QUANG VỚI VIỆT NAM QUỐC TỰ". Sau khi nói về công lao Hòa Thượng đã lãnh đạo khối Phật Giáo tranh đấu chống lại chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, trong mục 6, dưới tiêu đề "ĐẠI NẠN CỦA PHẬT GIÁO VÀ ĐẤT NƯỚC", Hòa Thượng kể lại tình trạng Phật Giáo, sau một tháng Hòa Thượng tham dự Hội nghị thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới tại Tích Lan trở về như sau:
Khoảng tháng 7. 1966, tôi đã về tới Sài Gòn, được tin đang có biểu tình trong Thành Phố Sài Gòn và một số nơi khác tại miền Trung. Tôi không hiểu, khi tôi đi vắng, ở nhà có Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Thiện Minh, do đâu lại phát động lại phong trào tranh đấu?
Tôi về tới Việt Nam Quốc Tự, bước chân vào cửa văn phòng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của tôi thì, có một biểu ngữ nền vàng chữ đổ ghi: "MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG". Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: "YÊU CẦU THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU".
Tôi định lên chánh điện Việt Nam Quốc Tự lễ Phật, tại đây có mấy vị Tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện Việt Nam Quốc Tự và hăm dọa, ai muốn vào Chùa hãy bước qua xác chết của họ.
Tôi vô cùng chán nản không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về Chùa Từ Quang. Về Chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư "CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA". Và, người trong Chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và chính các tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Chợ Vườn Chuối) định sang Chùa Từ Quang giết tôi. May có Sư Cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.
Từ đó, tôi phải đi nghỉ, nay tại nhà này, mai tại nhà khác, nay tại Viện Nhu Đạo Quang Trung, mai tại Nha Tuyên Úy Phật Giáo.
Từ đó, Việt Nam Quốc Tự bị Tăng Ni và quần chúng theo cộng sản nắm giữ, thao túng, liên tục ngày này qua ngày khác, ra Đường Trần Quốc Toản, ngã 6 Sài Gòn-Chợ Lớn biểu tình, đả đảo và đốt hình nộm Tổng Thống Mỹ, Tướng Thiệu, Tướng Kỳ.
Phần cuối mục này Hòa Thượng Tâm Châu viết:
"Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hỗ trợ ngầm của cộng sản nằm vùng, lải nhải vu không cho Việt Nam Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Thực như câu phương ngôn của Việt Nam thường nói: "Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng" Cậy đông, lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không coi nhân quả là chi cả.
Cho đến nỗi những vị Tăng không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị Tăng, Ni, Phật Tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và cộng sản nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay. Thực tội nghiệp".
Nói thẳng thắn, cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam, không có một tôn giáo, một đoàn thể nào, không bị cộng sản nằm vùng gây chia rẽ phá hoại. Thiên Chúa Giáo có những cán bộ gộc nằm vùng như Vũ ngọc Nhạ, Huỳnh văn Trọng v. v. . . Phật Giáo cũng vậy, cộng sản nằm vùng từ thượng tầng, tới hạ tầng, càng dễ dàng hơn.
Và sau khi nhắc lại lời Hòa Thượng Thích Huyền Quang thường nói đi nói lại:
"Cộng sản từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với cách mạng"
Hòa Thượng Tâm Châu viết tiếp:
". . . Ngày 30.4.1975 là ngày cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng bộ mặt thân cộng sản đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ.
- Khi quân cộng sản từ rừng về Sài Gòn, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn quang ra đón chào.
- Ngày 19. 5. 1975 phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức mừng sinh nhật Hồ chí Minh tại Chùa Ấn Quang.
Một đoạn trong phần kết của Bạch Thư, Hòa Thượng Tâm Châu viết:
"Gần một thế kỷ nay, nhân loại bị đau khổ đến cùng cực bởi nạn "tập quyền" của cộng sản. Ba mươi năm nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất chủ trương "tập quyền", chưa thấy đem lại tia hy vọng hòa hợp và an lạc cho đại chúng. Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ triền miên trong sự chia rẽ, đã có hai, ba tổ chức thống nhất. Phật Giáo tại Úc, "tập quyền"thống nhất trong tay một nhân vật tham độc, thiếu tài đức, gây bè phái, kỳ thị Trung, Bắc, hãm hại huynh đệ, đồng đạo, mặc cho gần trăm ngàn Phật Tử Việt Nam tỵ nạn tại Úc không nơi nương tựa, mặc cho danh dự Phật Giáo Việt Nam bị tổn thương nặng nề.
Ôi! Phật Giáo Việt Nam. Ôi! Phật Giáo Việt Nam.
Ai gây chi lắm điều đau khổ
Vũ trụ nài van đến nghẹn lời.
22. - Một người thân của gia đình Bác sĩ Thân Trọng Phước (xin được dấu tên) cho biết: Đầu tháng 5. 1963 một toán 5 người Mỹ từ Sài Gòn ra trú tại Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Đà Nẵng. Mấy ngày sau, một trong số 5 người này cùng với người thông dịch viên tên Thân Trọng Huế, con Bác Sĩ Thân Trọng Phước, người Huế, ra Chùa Từ Đàm gặp Thượng Tọa Thích Trí Quang. Một tuần sau xảy ra biến cố "cờ Phật Giáo" và vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế. Sau đó 5 người Mỹ cùng với thông dịch viên Thân Trọng Huế trở về Sài Gòn.
Về vụ nổ này, trong hồi ký "Công và Tội", tác giả Nguyễn Trân quả quyết khi mới chân ướt chân ráo tới Mỹ giữa năm 1975, ông đã được đọc bài báo do James Scott viết, đang trên một Tập san. Qua bài báo này James Scott thú nhận chính anh là người đã ném chất nổ tại Đài Phát Thanh Huế tối ngày 8. 5. 1963. Lúc ấy vì tinh thần còn đang quá giao động, ông chưa nghĩ gì đến việc viết lách. Khi viết hồi ký "Công và Tội", ông đã đi tìm Tập san này trong nhiều Thư Viện nhưng không thấy. Ông viết thơ hỏi Bộ Quốc Phòng xin được liên lạc với Đại Úy James Scott thì được trả lời: Có hai James Scott và cả hai đều không còn hiện dịch, không có sổ hưu bổng nên không có địa chỉ.
Phải chăng Đại Úy James Scott không phải là một sĩ quan thuần túy của Quân Đội Mỹ?
Và trong Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống xuất bản từ cuối thập niên 60, Cao Thế Dung và Lương Vị Hoàng cũng đã phát giác thủ phạm vụ ném chất nổ tại Đài Phát Thanh Huế, là một Đại Úy người Mỹ tên là James Scott.
Nhưng người ta biết rằng, lúc ấy Quân Đội Mỹ ở Việt Nam qua vị Tư Lệnh của họ, Tướng Paul D. Harkins, luôn mạnh mẽ chống lại âm mưu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của chính quyền Kennedy, cách riêng của Đại Sứ Herry Cabot Lodge. Vậy thì làm sao một sĩ quan của ông lại có thể làm nhiệm vụ "bắn phát súng lệnh" để khai mào việc thực hiện âm mưu này?
Đi tìm dấu vết Đại Úy James Scott, may mắn tôi được cựu Trung Tá Lê Thiện Phước, kể lại câu chuyện sau đây:
"Trước cuộc đảo chánh 1. 11. 1963, tôi (Lê Thiện Phước) là Phó Tỉnh Trưởng Nội An Biên Hòa. Sau đảo chánh được tuyên chuyển về Sư Đoàn I Bộ Binh làm Sĩ Quan Thanh Tra. Trong nghiệm vụ này tôi đã quen biết tất cả các sĩ quan trong Sư Đoàn từ cấp Tiểu Đoàn Trưởng trở lên, trong đó Đại Úy Hồng Dũ Long Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/3. Đầu năm 1965, một buổi chiều, Đại Úy Long đến thăm tôi tại Phòng Thanh Tra Sư Đoàn. Sau giờ làm việc chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm Âm Phủ. Khi qua Cầu Tràng Tiền ngang Đài Phát Thanh, Đại Úy Long buộc miệng nói:
- Mỗi lần qua chỗ này tôi lại nhớ đến và thương cho ông thầy cũ của tôi (Đại Úy Long trước kia là thuộc cấp của Thiếu Tá Đặng Sĩ). Tội nghiệp ông, phải mang cái án chung thân một cách oan uổng và âm mưu thâm độc của kẻ khác.
Và anh hỏi tôi:
- Anh có biết ai là thủ phạm vụ ném chất nổ tại đêm 8. 5. 1963 không?
- Khi nớ tôi đang ở Biên Hòa. Nay nghe mỗi người nói một ngã, mần răng mà biết được.
- Anh Đại Úy Cố Vấn của tôi đấy.
- Răng? Anh nói răng? Đại Úy Cố Vấn của anh là thủ phạm?
- Thì chính đương sự đã nói một cách úp mở cho tôi hiểu, anh ta là người đã ném chất nổ đêm 8. 5. 1963.
- Răng! Anh ta nói với anh ra răng?
- Cách nay chừng hai tháng, tôi mời Đại Úy Scott đi ăn cơm bên Câu Lạc Bộ Thể Thao. (trên bờ Hữu ngạn Sông hương)
Khi đi ngang đây tự nhiên tôi cũng nhớ tới ông Sỹ và nói với Scott như vừa nói với anh. Scott xoay qua hỏi tôi:
- Anh có biết ông Sỹ nhiều không?
- Trước kia tôi làm việc dưới quyền ông mà.
- Tôi rất ân hận về trường hợp của ông Sỹ. Khi ấy tôi chưa vào Quân Đội. Tôi làm việc trong Tòa Tổng Lãnh Sự ở Đà Nẵng. Nhưng đêm 8. 5. 1963 tôi có mặt ở đây.
- Vậy anh có biết ai là thủ phạm vụ ném chất nổ đêm bữa ấy không?
Anh ta cười, không trả lời đúng câu hỏi của tôi, mà nói tiếp:
- Ai mà cho rằng Việt Cộng gây nên vụ nổ này thì thật là ngây thơ. Loại thuốc nổ ấy chỉ có CIA Mỹ mới có".
Qua câu chuyện trên, quý độc giả đã thấy rõ sự liên hệ giữa James Scott, nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng với 5 người Mỹ từ Sài Gòn ra ở lại đây. Và một người trong 5 người ấy đã ra gặp Thượng Tọa Trí Quang trước khi xảy ra biến cố đẫm máu trẻ thơ vô tội tại Đài Phát Thanh Huế đêm 8. 5. 1963. Và tại sao sau này James Scott tuy mang cấp bậc Đại Úy, nhưng không phải là sĩ quan hiện dịch, không có tên trong sổ hưu bổng của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Và từ đó cũng thấy rõ ai là thủ phạm vụ gây ra cảnh chết chóc tang thương đêm 8. 5. 1963.
Khi Thượng Tọa Trí Quang vào Sài Gòn tuyệt thực chống hai Tướng Thiệu, Kỳ. Một người trong nhóm 5 người Mỹ này lại cùng với thông dịch viên Thân Trọng Huế đến gặp Thượng Tọa Trí Quang trao cho Thượng Tọa 4 triệu đồng. Mấy hôm sau Thượng Tọa Trí Quang ra lại Huế. Chừng 10 ngày sau đó, Huế và Đà Nẵng thành lập Mặt Trận Cứu Quốc, với lực lượng võ trang là Quân Đoàn Thủ Đô do Đại Tá Đàm Quang Yêu chỉ huy, tuyên bố ly khai chống lại chính phủ Trung Ương Sài Gòn.
Sau khi phong trào đấu tranh mang danh Phật Giáo của Thượng Tọa Trí Quang và đoàn quân của Đại Tá Yêu bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp, số người Mỹ này và cả thông dịch viên Thân Trọng Huế đã di chuyển qua Thái Lan. Trước khi qua Thái Lan, anh Huế đã giới thiệu ông Trần Văn Thưởng hiện ở Tiểu Bang New Mexico thay anh, nhưng chỉ phụ trách phần quân sự. Qua Thái Lan một thời gian, anh Thân Trọng Huế bị tai nạn, khi được đưa về đến Việt Nam thì đã hôn mê và mất tại Sài Gòn.
23. - Những ai chú tâm theo dõi cuộc đối đầu giữa chính phủ Nguyễn Cao Kỳ và nhóm "Tranh Đấu" miền Trung hẳn đều biết, lần đầu Tướng Kỳ đưa quân ra dẹp nhóm "Tranh Đấu", đã không được người Mỹ tán đồng, không thỏa mãn những nhu cầu cần được yểm trợ. Lại gặp thêm khó khăn vì một đơn vị Quân Đội, Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân ly khai tham gia phong trào tranh đấu. Rút cuộc, mới đưa được vài đơn vị ra đến Đà Nẵng, Tướng Kỳ lại phải cho lệnh trở về.
Nhưng lần thứ hai, vào trung tuần tháng 5. 1966, sau khi Thượng Tọa Trí Quang phát động chiến dịch đưa bàn thờ Phật xuống đường thì tất cả đều quay ngược hẳn một trăm tám mươi độ, phi cơ, tàu thủy v. v. . . được cung cấp đầy đủ theo nhu cầu. Việc chuyển quân, vũ khí, quân dụng. . . của Trung Ương được hoàn tất nhanh chóng.
Khi ấy, lực lượng "Tranh Đấu" tại miền Trung, (Huế, Đà Nẵng, Quảng Tín. . . ) gồm có Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân ly khai với Trung Ương, vào đóng quân trong Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, và các thanh niên "tranh đấu" được trang bị vũ khí lấy ra từ các kho địa phương. Lực lượng này đã thành lập một Quân Đoàn với danh xưng Quân Đoàn Trần Hưng Đạo, quyết chống lại Quân Đội từ Sài Gòn ra với khí thế lên cao ngút ngàn, tưởng chừng như không lực lượng nào có thể vượt qua nổi.
Nhưng điều làm ngạc nhiên mọi người là, khi quân của Trung Ương tới nơi thì gần như không phải giao chiến. Lực lượng "Tranh Đấu" tan rã nhanh đến độ không ai ngờ.
Người có công đầu trong việc tạo ra điều "không ai ngờ" này là cựu Trung Tá Nguyễn Thừa Dzu, hiện cư ngụ tại Thành Phố Wesminster, Orange County, California.
Cựu Trung Tá Dzu kể lại với tôi:
"Khi ấy, với cấp bậy Đại Úy, tôi là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân đồn trú tại Quận Tam Kỳ, Tỉnh Quảng Tín. Khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị chính phủ Trung Ương giữ lại tại Sài Gòn sau một cuộc họp, nhóm tranh đấu liền hướng ngay mục tiêu xuống đường của họ vào sự kiện này, nhằm khích động dân chúng chống lại chính phủ Trung Ương. Là người khi ấy rất ngưỡng mộ Tướng Thi, tôi cho rằng mục đích của nhóm tranh đấu là chính đáng. Tôi đã đem cả đơn vị tham gia nhóm này một cách rất nhiệt tình, quyết liệt chống lại chính phủ Trung Ương. Lần đầu, Trung Ương không vận Chiến Đoàn M. 48 do Trung Tá Phan Hòa Hiệp chỉ huy và một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra Đà Nẵng để dẹp nhóm tranh đấu. Để giúp "phong trào tranh đấu" chống lại Trung Ương, tôi điều động Tiểu Đoàn của tôi, một Chi Đoàn M. 113, một Pháo Đội 105, từ Tam Kỳ ra bao vây hai đơn vị này tại Phi Trường Đà Nẵng. Tướng Wall Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng tại Đà Nẵng mới tôi đến, lấy lý do kéo dài tình hình bất ổn sẽ có lợi cho đối phương, khuyên tôi đừng chống chính phủ Trung Ương, tôi không chịu. Trước quyết định chống trả của tôi, Chiến Đoàn M. 48 và Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến phải rút về. Trung Ương cho hai sĩ quan bạn tôi, Đại Úy Trần Thụy Ly và Trần Văn Duệ ra tiếp xúc thuyết phục tôi hợp tác, tôi cũng không chấp nhận.
Sau vụ này, Đại Tá Đàm Quang Yêu Tư Lệnh Biệt Khu Quảng Đà, người tích cực ủng hộ "nhóm tranh đấu" đưa đơn vị của tôi về Đà Nẵng. Thời gian này, với vũ khí lấy ra từ các kho của Quân Đội, tôi đã thành lập thêm một Tiểu Đoàn gồm các thanh niên của nhóm tranh đấu, và cùng với Đại Tá Yêu thành lập Quân Đoàn Trần Hưng Đạo. Đại Tá Yêu nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn này.
Nhằm gây thêm thanh thế với Trung Ương, uy tín với dân chúng, nhóm tranh đấu đã mời tôi đem Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vào đóng trong Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, trụ sở đầu não của nhóm "Phật Giáo tranh đấu". Thời gian đóng ở trong Chùa, đi sát với các vị Sư, nhất là Thượng Tọa Thích Minh Chiếu, Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo Quân Đoàn I, thấy nhiều người đi ra đi vào, cạo trọc đầu, đều phải gọi là Đại Đức. . . mà không biết xuất thân từ đâu. Ban đêm, phía sau Chùa có nhiều người vào, đều ăn mặn. Một lần, đêm khuya cùng với sĩ quan Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn đi kiểm soát quanh Chùa, tình cờ tôi thấy dưới bàn thờ Phật chứa quá nhiều thuốc tây và truyền đơn. Tìm hiểu, tôi được biết số lượng thuốc lớn lao này là để tiếp tế vào bưng. Qua cung cách của những người lãnh đạo "nhóm tranh đấu", các hoạt động trong Chùa, cộng với tình hình an ninh chung suy sụp quá nhanh, tôi nhận thấy rõ ràng "nhóm tranh đấu", là do Việt Cộng điều khiển, tôi quyết định rút khỏi nhóm này. Quyết định của tôi bị một sĩ quan Đại Đội Trưởng, Trung Úy Tôn Thất Trực, người vẫn còn quyết liệt ủng hộ "nhóm tranh đấu", chống đối. Viện lý do nếu đóng toàn bộ Tiểu Đoàn trong khuôn viên chùa, khi quân của Trung Ương ra bao vây, sẽ không yểm trợ được cho nhau và không có đường thoát. Tôi cho Trung Úy Trực và Đại Đội của ông này ở lại trong Chùa, còn tôi, tôi đem toàn bộ lực lượng còn lại của Tiểu Đoàn ra đóng quân ở sân vận động Đà Nẵng.
Biết được tình hình này, Trung Ương lại phái hai Đại Úy Trần Thụy Ly và Trần Văn Duệ ra thuyết phục tôi hợp tác. Vì đã thấy rõ thực chất của "phong trào tanh đấu", lần này tôi nhận lời hợp tác với Trung Ương để giải quyết tình trạng bất ổn kéo dài quá lâu, đã gây nhiều hậu quả tai hại cho tình hình an ninh Quốc Gia.
Chúng tôi cùng nhau thảo ngay một kế hoạch hành quân. Đề phòng sự chống đối của Trung Úy Tôn Thất Trực có thể gây trở ngại cho cuộc hành quân. Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Tiểu Đoàn, tôi đề nghị thăng cấp Đại Úy giả định cho Trung Úy Trực, đưa ông này vào làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân đóng tại Hội An. Đồng thời tôi biệt phái cả Đại Đội 2 của Tiểu Đoàn cho đi theo Đại Úy Trực, với lý do giúp ông một thời gian trong nhiệm vụ mới.
Sau khi đã dẹp bỏ được trở ngại, đúng ngày giờ quy định, từ 1 đến 5 giờ sáng ngày N, tôi điều động lực lượng của Tiểu Đoàn chiếm đóng tất cả các cơ quan đầu não quân sự và hành chánh, chận các ngã ra vào thành Phố, vây hãm tư thất các Tư Lệnh, với lý do có lực lượng Việt Cộng đột nhập Thành Phố. Trong khi đó, lực lượng của Trung Ương được chuyển vận bằng mọi phương tiện, kể cả hàng không dân sự, đổ xuống Phi Trường. Và khi trời vừa hừng sáng, họ tiến ra nhận bàn giao, thay thế Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân của tôi kiểm soát toàn bộ các đơn vị Quân Đội, cơ quan hành chánh tại Đà Nẵng.
Khi đến giải tỏa Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, lực lượng hành quân của Trung Ương đã gặp phải sự chống cự khá mạnh từ bên trong Chùa. Nhưng tuân hành lệnh của chính phủ, họ không tấn công vào Chùa. Mặc dù vậy, vì lực lượng còn lại trong Chùa chỉ gồm một ít thanh niên tranh đấu, và một số Quân Nhân lẻ tẻ thuộc các đơn vị chuyên môn, không có kinh nghiệm tác chiến và tinh thần chiến đấu. Vì thế nên cuộc giải tỏa Chùa, giải giới toán thanh niên võ trang của "nhóm tranh đấu" không gặp khó khăn nào đáng kể.
24. - Trong bản phúc trình về tình trạng tự do tín ngưỡng trên thế giới của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ năm 1999, được công bố đầu tháng 9. 1999. Trong phần nói về tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam dài 8 trang có đoạn viết:
"Giữa các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có mối quan hệ thân hữu tốt đẹp. Một số những va chạm của Phật Giáo với Công Giáo như trong thập niên 1960, chỉ là những sự kiện giới hạn ở tầm mức địa phương, và bị thúc đẩy bởi những ý đồ chính trị nhất thời".
"CẦN LAO CÔNG GIÁO GIẾT PHẬT TỬ?"
1. - Sau ngày 1 tháng 11 năm 1963, tình hình hỗn loạn xảy ra khắp nơi, nhiều cơ quan chính quyền từ địa phương lên đến Trung Ương, người ta nhận được hàng loạt đơn tố cáo: "Cần Lao Công Giáo tiếp tục trả thù đàn áp, giết hại Phật Tử". Hầu hết số đơn này cũng như những đơn tố cáo chính quyền đàn áp Phật Giáo thời còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đều được gửi đi từ các khuôn Hội Phật Giáo tại các Tỉnh được chính quyền Quốc Gia tiếp thu sau khi Hiệp Định Geneva được thi hành (Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên). Sau đây là một trường hợp điển hình.
Ngay sau khi nền Đệ I Cộng Hòa bị lật đổ, Thiếu Tá H. N. (còn ở Việt Nam) Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Khu Trưởng kiêm Phó Tỉnh Trưởng Nội An một Tỉnh phía Nam Đà Nẵng bị bắt giam. Ông bị Tỉnh Hội Phật Giáo địa phương thưa: "Sĩ quan Công Giáo, đảng viên đảng Cần Lao, đã giết một Đại Đức của Tỉnh Hội".
Khi nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I Quân Khu I kiêm Đại Biểu Chính Phủ Trung Nguyên Trung Phần, một hôm Tướng Nguyễn Chánh Thi đến thăm Quân Lao trong Thành Mang Cá nhỏ, ông cho kêu Thiếu Tá N. lên trình diện. Ông hỏi Thiếu Tá N:
- Anh đã giết một Đại Đức Phật Giáo phải không?
- Thưa Trung Tướng, tôi giết một tên cán bộ cộng sản đội lốt tu sĩ, chứ tôi không giết Đại Đức Phật Giáo.
- Tại sao anh nói người ta là cộng sản?
- Thưa Trung Tướng, xin Trung Tướng bình tĩnh coi lại hồ sơ của ông này. Nếu Trung Tướng không tin thời Đệ I Cộng Hòa, xin đừng coi hồ sơ thời kỳ ấy. Trung Tướng cứ coi hồ sơ từ thời Pháp đến thời các chính phủ trước Đệ I Cộng Hòa để lại, Trung Tướng sẽ thấy tôi nói đúng hay sai.
Sau khi nghe Thiếu Tá H. N. trình bày, Tướng Thi ôm vai ông nói:
- Đúng, toa nói đúng. Trước khi ra đây, moa đã coi kỹ hồ sơ của tên này, y đúng là một cán bộ cộng sản quan trọng, phải giết, dù y đội lốt tu sĩ Phật Giáo. Thôi được, toa yên chí, vụ này để moa thu xếp cho.
Một tháng sau, vụ án Thiếu Tá H. N. đăng đường với tội danh: "Cần Lao Công Giáo giết Đại Đức Phật Giáo". Trong lúc Chánh Án và Bồi Thẩm Đoàn đang ngồi đợi giờ xử thì Đại Tá Khoan, một sĩ quan trong thành phần Bồi Thẩm Đoàn từ Đà Nẵng ra mang theo một văn thư của Tướng Thi gửi ông Chánh Án. Nhận văn thư, ông Chánh Án mở ra đọc cho Bồi Thẩm Đoàn nghe. Tướng Thi yêu cầu Tòa ngưng viên xử, vì nội vụ cần được điều tra bổ túc. Văn thư được đóng dấu ấn Đại Biểu Chính Phủ. Ông Chánh Án tỏ ra rất lo ngại trước quyết định của Tướng Thi. Vì ông thấy đó là một điều quá nguy hiểm trước khí thế của "phong trào đấu tranh mang danh Phật Giáo" lúc bấy giờ. Thấy vậy, Đại Tá Khoan đề nghị ông Chánh Án lấy ý kiến Bồi Thẩm Đoàn bằng cách bỏ phiếu kín. Kết quả, tất cả Bồi Thẩm Đoàn đều đồng ý với quyết định của Tướng Thi. Và cuối cùng, Thiếu Tá H. N. được trả tự do.
Cựu Trung Tá Lê Thiện Phước, khi ấy là Sĩ Quan Thanh Tra Sư Đoàn I Bộ Binh đã tháp tùng Tướng Thi trong cuộc thăm Quân Lao Mang Cá nhỏ và cũng là thành viên trong Bồi Thẩm Đoàn của vụ án kể trên.
2. - Tháng 4 năm 1965, Sở I An Ninh Quân Đội khám phá ra tổ chức Liên Hiệp Sinh Viên-Học Sinh của Việt Cộng trong đó có vài Phật Tử, với tài liệu đầy đủ. Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng can thiệp yêu cầu thả những người này. Thiếu Tá Nguyễn Văn Ứng Chánh Sở không thỏa mãn với lý do: Nội Vụ đã được trình lên Tướng Thi Tư Lệnh Quân Đoàn. Mấy ngày sau, một truyền đơn được rải khắp Thành Phố Đà Nẵng. Truyền đơn mang nội dung: "Yêu cầu Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi phải đuổi tên Thiếu Tá Ứng ra khỏi Thành Phố. Tên Thiếu Tá Cần Lao ác ôn, tay sai Nhu-Diệm đàn áp Phật Giáo. Nếu sau 48 tiếng đồng hồ, tên Ứng còn có mặt ở Đà Nẵng, chúng tôi sẽ xin y tý huyết".
Cùng thời gian này, Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng bắt một tên đặc công Việt Cộng vào đặt chất nổ tại Khách Sạn Morin, nơi Quân Nhân Mỹ thường xuyên vào ăn uống. Khai thác không tìm ra được manh mối gì. Nội vụ được giao qua cho Sở An Ninh Quân Đội. Tại đây, Thiếu Tá Ứng khai thác tên đặc công, đã khám phá ra một tổ đặc công quan trọng. Nhờ khai thác kịp thời, khối chất nổ lớn đặt trong một vỏ radio đựng trong một cái túi xách có nhãn hiệu Air Việt Nam đã được vô hiệu hóa kịp thời, tránh được một vụ phá hoại có thể gây nhiều chết chóc.
Đến 10 giờ tối ngày 29. 4 Tướng Thi đích thân đến Sở An Ninh Quân Đội ra lệnh cho Thiếu Tá Ứng chuẩn bị hồ sơ, đưa tổ đặc công này ra trình diện phái đoàn báo chí từ Sài Gòn sẽ ra vào ngày hôm sau.
Chiều 30. 4, trong cuộc họp báo do Tướng Thi chủ tọa, Thiếu Tá Ứng dẫn toán đặc công ra mắt các phóng viên. Tướng Thi đã hết sức hài lòng về những thú nhận của toán Việt Cộng này trước các ký giả.
Sáng hôm sau 1. 5, ngày Quốc Tế Lao Động, Tướng Thi với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn kiêm Đại Biểu Chính Phủ, tập họp các đơn vị Quân Đội và Hành Chánh tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, khen thưởng và gắn huy chương cho các nhân viên hữu công trong vụ khám phá tổ đặc công trên đây. Thiếu Tá Ứng được tuyên dương công trạng trước Quân Đoàn, được tưởng thưởng một Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng.
Nhưng chỉ ngày hôm sau, ngày 2. 5, Tướng Thi lại có một quyết định hoàn toàn trái ngược với việc ông làm hôm trước. Ông ký lệnh tuyên chuyển Thiếu Tá Ứng qua Sư Đoàn 2 Bộ Binh, cho ra khỏi Ngành An Ninh Quân Đội, mà không cho biết lý do tuyên chuyển và việc phải ra khỏi ngành chuyên môn của anh.
***
Để kết thúc chương này, tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả lời một nữ trí thức và một vị Bác Sĩ trình bày trước Phái Đoàn Đại Diện Liên Hiệp Quốc, về thái độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với Phật Giáo và bài "Một Thời Vang Bóng" của Đại Sứ Hà Vĩnh Phương. Cả ba vị trên đây đều là Phật Tử thuần thành.
Riêng về Đại Sứ Hà Vĩnh Phương, khi chấp thuận đề nghị của Giáo Sư Bửu Hội, yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử Phái Đoàn qua tìm hiểu tại chỗ về lời cáo buộc Chính Phủ Việt Nam vi phạm nhân quyền, Tổng Thống Diệm đã cử Giáo Sư Bửu Hội làm Đặc Phái Viên của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cạnh Liên Hiệp Quốc. Ông Hà Vĩnh Phương khi ấy đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tây Đức, Đam Mạch, Na Uy và Thụy Điển, đồng thời là Đại Diện Việt Nam Cộng Hòa trong Hội Đồng Thống Đốc Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế, được cử Phụ Tá cho Giáo Sư Bửu Hội. Bài viết liên quan đến biến động Phật Giáo năm 1963 của ông, được đăng trong Đặc San Tiếng Sông Hương do Hội Ái Hữu cựu Học Sinh Trường Quốc Học Huế xuất bản năm 1996, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường này.
1. - Nhân chứng số 38: Một nữ trí thức mà lý lịch của bà và những sự kiện bà viết về cuộc Biến Động, đã được bà khai trước Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc như dưới đây:
"Với tuổi tác, kinh nghiệm và sự nghiệp của tôi, tôi biết rõ xứ này. Tôi thuộc một dòng họ đông đảo nhất của nước Việt Nam. Đó là một vọng tộc gồm những người trí thức. Chúng tôi theo Phật Giáo và Khổng Giáo, chúng tôi thờ phụng tổ tiên và thờ Phật. . . Tôi muốn đem những điều hiểu biết của tôi giúp đỡ quý vị và do đó giúp đỡ thế giới và xứ sở của tôi. . . "
Khi được Phái Đoàn hỏi bà đã chứng kiến những biến cố nào trong tháng 5 tại Huế? Bà trả lời:
- Tôi dự lễ tại Chùa Từ Đàm.
- Có gì xảy ra tại đấy?
- Thầy Thích Trí Quang đã giải thích các biểu ngữ, các biểu ngữ chống Chính Phủ.
- Nói cách khác, có người đã lợi dụng buổi lễ để tuyên truyền chống Chính Phủ?
- Vâng, nhưng đó chỉ là sự khởi đầu.
Khi được hỏi về các nhà Sư tự thiêu bà đáp:
- Nói về các vụ tự thiêu tôi muốn đề cập đến vấn đề chính trị. Trước kia, tôi là một cố vấn và ngay cả trong thời gian ấy Việt Cộng phỉnh phờ được đủ hạng người. Các lời đồn do Việt Cộng phao ra, lan tràn khắp nơi.
Ngoài ra ai cũng có thể làm nhà Sư cả. Có những Sư thật và sư giả, Phật Tử thật và phật tử giả. Vì không có sự kiểm soát nào trong các Nhà Chùa (Chính Phủ cũng không thể kiểm soát Chùa chiền) nên không có cách gì để phân biệt thật hay giả. Vậy có thể có những trá hình. Tôi dám nói rằng các nhà sư quá khích nhất chính là những người cộng sản. Những nhà Sư thật là những người thực hành theo các đức hạnh Phật Giáo như bất bạo động, không ganh tị, từ bi.
Ở đây chúng tôi rất khoan hòa về tôn giáo. Ai cũng có thể xây Chùa không cần xin phép trước. Do đó, không thể kiểm soát xem họ có cộng sản hay không. Tôi biết hiện giờ Việt Minh đang tìm cách gây một cuộc chiến tranh tôn giáo.
- Có phải một trong những lý do của các cuộc biểu tình là sự ưu đãi đối với người Thiên Chúa Giáo và sự ngược đãi người theo Phật Giáo không?
- Tôi rất ngạc nhiên nếu có như vậy. Trong các cơ quan và trong mọi ngành hoạt động, Phật Tử đông hơn người theo các tôn giáo khác.
- Bà giải thích thế nào về sự kiện, năm nầy, Chính Phủ cấm treo cờ Phật Giáo nhân ngày Khánh Đản của Đức Phật.
- Chính Phủ quyết định về các ngày vía Phật và vía Khổng Tử. Trước Chính Phủ này, các ngày ấy không phải là ngày lễ.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một người theo Thiên Chúa Giáo, nhưng Tổng Thống có thái độ khoan dung với các tôn giáo khác. Trong các trại lính, có những Chùa bên cạnh Nhà Thờ. Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ ký sắc lệnh ấn định cờ Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo có khích thước bằng nhau nhưng không được quá 2/3 cờ Quốc Gia.
Các biến cố đã xảy ra ngay trong Thành Phố. Ngày ấy, trong im trời nóng 34 độ. Dân chúng kéo cờ, và cờ Quốc gia thường thường nhỏ hơn cờ Phật Giáo. Điều ấy xảy ra nhiều Tỉnh khác, nhưng các Tỉnh Trưởng tự mình kiểm soát để Sắc Lịnh được áp dụng. Ở đây, Tỉnh Trưởng ra lịnh cho Cảnh Sát phụ trách. Trong vài trường hợp lẻ tẻ, Cảnh Sát không đối xử tử tế với quần chúng. (Báo Cáo Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc. Trang 204)
2. - Nhân chứng số 39. Một vị Bác Sĩ mà lý lịch của ông và một vài sự kiện, nhận xét, liên quan đến lời cáo buộc Tổng Thống Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật Giáo được ông khai trước Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc như sau:
" Đầu tiên, tôi muốn tự giới thiệu, không phải vì khoe khoang, nhưng để làm sáng tỏ vài phương diện của vấn đề. Tôi là Bác Sĩ. Tôi học ở Pháp. Tôi theo Phật Giáo, gia đình tôi theo Phật Giáo từ nhiều đời, em gái tôi là Ni Cô từ 1950 và từ khi ở Pháp về, tôi là Bác Sĩ chính thức của hầu hết tất cả Ni Cô và nhà Sư ở Sài Gòn, đặc biệt, các nhà Sư trong Giáo Hội Tăng Già Việt Nam cột trụ của phong trào Phật Giáo. Quý vị có thể hỏi các nhà Sư kiểm chứng điều tôi nói. Tôi đã chữa bệnh cho tất cả: Ngài Hội Chủ ở Huế, Chủ Tịch Ủy Ban, mọi hội viên khác, dù được tự do hay bị giam giữ và những năm sau này, thỉnh thoảng tôi chữa bệnh cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi đã làm trung gian giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các Phật Tử khi cần thiết. Bắt đầu phong trào tháng 5. 1963, theo sự yêu cầu của các nhà lãnh đạo Phật Giáo, tôi đã đứng ra làm trung gian giữa Tổng Thống Diệm và các Phật Tử. Vâng, tôi tiếp xúc trực tiếp với chính Tổng Thống, chứ không phải với Chính Phủ. . . .
Tôi đã tham dự nhiều cuộc hội kiến giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và vài nhà lãnh đạo Phật Giáo trước biến cố 8. 5. Các cuộc hội kiến được tổ chức đặc biệt, để ban cho các nhà lãnh đạo Phật Giáo vài đặc ân như cho đất, rừng hay tiền bạc để xây Chùa. Tôi gặp Tổng Thống hai ba ngày sau ngày 8. 5 và tôi có thể làm chứng rằng Tổng Thống xem các biến cố ấy như là một tai họa lớn nhất cho xứ sở chúng tôi. Tổng Thống đã yêu cầu tôi can thiệp, một mình hay với tất cả gia đình và bạn hữu của tôi, để hết sức giảm thiểu các hậu quả khốc hại có thể xảy ra.
Khi được hỏi: Ông bảo rằng với tư cách là Bác Sĩ, ông đã chữa bệnh cho nhiều nhà Sư, nhất là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Hòa Thượng hiện nay gần 90 tuổi, có còn đầy đủ khả năng không?
- Vâng, tôi muốn nói rằng Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết vẫn còn sáng suốt, nhưng vì giáo lý của đạo ngài, Hòa Thượng từ khước mọi hoạt động trong phạm vi chính trị quốc tế. Từ khi giữ chức vụ hiện tại, Hòa Thượng không thể kiểm soát được phong trào và tôi nghĩ rằng, xem Hòa Thượng như Giáo Hoàng của Phật Giáo là một sự lầm lẫn, bởi về chính Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già mới là nhân vật cao nhất của Phật Giáo xứ này. Ở đây, có một điều cần cắt nghĩa. Thượng Tọa Thích Thiện Hòa trước kia là người ủng hộ Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và những người hầu Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết đã đầu cơ về việc đó và làm cho những người ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc, tưởng rằng Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là nhân vật quan trọng nhất.
Và cuối cùng vị Bác Sĩ này đã trình bầy trước Phái Đoàn nhận xét của ông về con người Tổng Thống Diệm đối với vấn đề tôn giáo như sau:
Vì tôi có những tiếp xúc trực tiếp với Tổng Thống, tôi có thể nói dù rằng Tổng Thống theo Thiên Chúa Giáo, Tổng Thống đã nghiên cứu các triết lý Phật Giáo và Khổng Giáo. Tổng Thống cũng không gần Thiên Chúa Giáo hơn Phật Giáo. Tổng Thống hiểu rõ các Phật Tử.
Một vài xu hướng tinh thần của Tổng Thống lại đượm màu sắc Phật Giáo hơn Thiên Chúa Giáo. Nếu các kết luận của một cuộc điều tra là có sự kỳ thị về phía Chính Phủ đối với Phật Giáo, ý kiến của tôi là Tổng Thống không theo đuổi một đường lối chính trị kỳ thị đối với Phật Giáo". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 207)
Một điều thiết tưởng quý vị độc giả cũng cần biết, đó là: Các nhân chứng đến khai trước Phái Đoàn Tìm Hiểu Sự Việc (Facht-Finding Mission) của Liên Hiệp Quốc đều là những người tự đến xin gặp Phái Đoàn, hoặc được Phái Đoàn trực tiếp mời, theo tin tức họ nhận được về sự liên hệ cũng như hiểu biết của những người này, đối với cuộc tranh đấu được gọi là "của Phật Giáo". Chính quyền không được biết và cũng không được giới thiệu bất cứ người nào đến gặp Phái Đoàn. Vì vậy mà trong phúc trình, Phái Đoàn không ghi rõ tên các nhân chứng mà chỉ ghi số.
Nhờ được Chính Phủ dành cho quyền hoạt động rộng rãi và hoàn toàn tự do như vậy, Phái Đoàn đã gặp được một số Tăng sĩ, một vài sinh viên mà theo báo cáo Phái Đoàn nhận được, họ đã bị mất tích, bị thủ tiêu v. v. . .
Bản phúc trình Phái Đoàn báo cáo lên Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, đã bị áp lực từ phía Mỹ, đặc biệt là từ Đại Sứ Cabot Lodge, đã không được phổ biến cho báo chí. Vì sự thật của sự việc đã hoàn toàn trái ngược với những gì Đại Sứ Lodge và một số báo chí Hoa Kỳ đã báo cáo với Chính Phủ và nhân dân nước họ.
Và như nhiều người đã biết, những biến động được mang danh "Cuộc tranh đấu của Phật Giáo", được khởi sự từ tháng 5. 1963, chỉ được chấm dứt vào cuối năm 1966. Sau khi cuộc tranh đấu đã đi tới tột đỉnh của sự "phạm thượng" bằng hành động đưa bàn thờ Phật ra bày la liệt ngoài đường phố, đặt ảnh Đức Phật ở nhiều nơi hoàn toàn bất xứng, các tăng sĩ ra ngồi giữa đường chận xe tăng, chận đường tiến quân của Quân Đội miền Nam và bị Chính Phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan không nương tay.
Và rõ ràng hơn, mục đích cuộc tranh đấu của nhóm quá khích do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, cũng đã được ông tiết lộ với nữ phóng viên Marguerite Higgins tại Chùa Xá Lợi hồi trung tuần tháng 7. 1963.
"Chúng tôi không thể dàn xếp được với Bắc Việt cho đến khi trừ khử được Diệm và Nhu". (Our Vietnam Nightmare. Trang 28)
Ngoài ra, trong phong trào tranh đấu "mang danh Phật Giáo" do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo chống lại điều được gọi là "Chính sách kỳ thị tôn giáo" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có hai nhân vật mà việc họ tham gia và rút khỏi phong trào này đã gây ra nhiều thắc mắc. Đó là ông Mai Thọ Truyền và Đại Đức Thích Đức Nghiệp.
1. - Ông Mai Thọ Truyền là Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, người đã trực tiếp nhận số tiền 2. 000. 000 đồng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm giúp cho công việc xây cất Chùa Xá Lợi do ông chủ xướng. Và hai tháng trước khi xảy ra biến cố "cờ Phật Giáo", với tư cách là Phó Hội Chủ Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, ông cũng đã được Tổng Thống Diệm mời vào gặp cùng với Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican, để yêu cầu lưu ý tín hữu về việc phải tôn trọng cờ Quốc Gia trong các cuộc lễ lược của mỗi tôn giáo.
Khi phong trào tranh đấu của nhóm Thượng Tọa Trí Quang nổi lên, không những ông đã làm thinh về những cử chỉ vừa kể trên đây của Tổng Thống Diệm, ông còn để cho nhóm Thượng Tọa Trí Quang dùng Chùa Xá Lợi làm Tổng hành dinh điều khiển cuộc đấu tranh.
Nhưng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông đã trục xuất Thượng Tọa Trí Quang và nhóm tranh đấu ra khỏi Chùa Xá Lợi, khi cuộc tranh đấu của nhóm này được tiếp tục.
2. - Đại Đức Thích Đức Nghiệp là "Phát ngôn viên chính thức" của Phong trào tranh đấu của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang trong giai đoạn chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Sau khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ, người ta thấy ông không còn giữ vai trò "phát ngôn viên" của phong trào này. Và một thời gian sau ông được qua Mỹ du học.

PN99
03-12-2009, 19:37
Chương 3.1



CUỘC ĐẢO CHÁNH 1.11.1963


TIỀN ĐẢO CHÁNH

Cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 xảy ra không phải là chuyện bất ngờ đối với các nhà lãnh đạo Đệ I Cộng Hòa. Chỉ mấy tháng sau khi Tổng Thống Kennedy lên cầm quyền, thấy rõ đường lối của ông, họ đã đoán biết những khó khăn sẽ xảy đến đối với họ.
Sau khi nhận chính quyền, duyệt xét chiến lược ngăn chận Cộng Sản bành trướng tại vùng Đông Nam Á, Tổng Thống Kennedy chủ trương: Không cần giữ Lào Quốc để bảo vệ "bức tường" Nam Việt Nam, vì đường tiếp vận cho Lào khó khăn. Thay vào đó, chỉ cần bố trí một lực lượng quân sự thật hùng mạnh tại Nam Việt Nam.
Thực hiện chủ trương này, tháng 5.1961 Tổng Thống Kennedy gửi Phó Tổng Thống Johson qua Sài Gòn đề nghị Tổng Thống Diệm cho đưa Quân Đội Mỹ vào tham chiến tại Việt Nam. Đề nghị này bị Tổng Thống Diệm từ chối vì sự hiện diện của Quân Đội Mỹ trên chiến trường sẽ làm cho cuộc chiến chống cộng của Việt Nam Cộng Hòa mất chính nghĩa và đất nước mất chủ quyền.
Để dung hòa. Việt Nam đề nghị hai Chính Phủ Việt-Mỹ ký một Hiệp ước An Ninh Hỗ Tương như chính phủ Mỹ đã ký kết với chính phủ Đại Hàn.
Không chấp nhận đề nghị của Việt Nam, Hoa Kỳ đưa ra đề nghị mới: Hai nước ký một Hiệp ước hợp tác theo hình thức "công ty hợp doanh"(tháng 10.1961). Áp dụng hình thức này có nghĩa là bên nào đóng góp nhiều hơn sẽ nắm quyền điều khiển cuộc chiến.
Một lần nữa sáng kiến của chính phủ Kennedy bị Tổng Thống Diệm bác khước. Vì hợp tác theo hình thức này Việt Nam sẽ mất quyền chủ động trong cuộc chiến.
Thái độ cứng rắn không khoan nhượng trong lập trường bảo vệ độc lập và chủ quyền đất nước của Tổng Thống Diệm, đã làm cho một số nhân vật trong chính phủ Kennedy hết sức tức dận. Họ đòi chính phủ Mỹ phải lập một chính quyền mới tại Việt Nam.
Biết rõ được lập trường của Tổng Thống Diệm, các nhân vật này liền thực hiện một âm mưu rất thâm độc. Họ tìm cách tạo ra những tình trạng đẩy ông vào thế phải chống lại chính quyền Mỹ, để có lý do biện hộ cho việc loại trừ ông trước công luận Hoa Kỳ.
Cuối năm 1961, chính phủ Mỹ tự ý tăng số Cố Vấn trong Quân Đội Việt Nam từ 6. 000 lên 18. 000 người mà không tham khảo trước với Chính Phủ Việt Nam. Với số cố vấn tăng lên gấp 3 này, họ đòi phải được đặt thêm cố vấn quân sự xuống đến cấp Tiểu Đoàn, và bên ngành Hành Chánh phải được đặt cố vấn ở cấp Tỉnh.
Khi đã đặt được cố vấn ở cấp Tỉnh, đầu năm 1963, họ đơn phương quyết định cung cấp các vận dụng viện trợ cho Chương Trình Ấp Chiến Lược thẳng đến các Tỉnh, không qua Ủy Ban Trung Ương của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Đến tháng 4 cùng năm, Tổng Thống Kennedy lại đòi Chính Phủ Việt Nam phải để cho Hoa Kỳ kiểm soát ngân khoản dành cho công tác chống nổi dậy, mà trong đó có 3% do ngân sách Việt Nam đóng góp.
Qua các sự kiện trên đây, âm mưu của những nhân vật chủ trương loại trừ Tổng Thống Diệm trong chính quyền Kennedy đã đạt kết quả. Họ gây ra được sự rạn nức trầm trọng trong bang giao giữa hai chính phủ Việt Nam và Hoa Kỳ, các nhà lãnh đạo Việt Nam tỏ rõ thái độ quyết liệt chống lại lối hành xử của chính quyền Kennedy coi Việt Nam như một thuộc địa của nước Mỹ.
Từ đó, dư luận về một cuộc đảo chánh nhằm xóa bỏ chế độ Đệ I Cộng Hòa Việt Nam mỗi ngày mỗi ồn ào hơn. Trong quần chúng thành thị, người ta được nghe nói nhiều đến việc chính phủ Kennedy đã quyết định tìm cách loại bỏ Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhiều giới chức Hoa Kỳ đã vô tình hay cố ý tiết lộ với vác giới chức và nhân vật thân quen, gần gũi với các nhà lãnh đạo Việt Nam tin tức liên quan đến quyết định nói trên.
Ông Trần Trung Dung kể lại với tôi, Giáo Sư Fishel, nguyên Cố Vấn của Trường Quốc Gia Hành Chánh và ngành Cảnh Sát Quốc Gia, bị chấm dứt bởi hợp đồng vào trước cuối năm 1962, vì bị khám phá ra là một nhân viên CIA quan trọng. Trong một chuyến ghé qua Sài Gòn cuối năm ấy, ông này cho ông Dung biết "Một cuộc đảo chánh chế độ Ngô Đình Diệm sẽ xảy ra trong tháng 1 hoặc tháng 2. 1963".
Ít lâu sau, hai người Mỹ khác, bạn thân của ông Trần Trung Dung đến Sài Gòn, ông khoảng đãi họ cách trân trọng. Theo lời ông Dung, khi rượu đã ngà ngà, hai người này tiết lộ với ông: "Việc bắt ông Diệm thôi đã dứt khoát, nếu không thôi sẽ bị giết".
Nhận thấy tình hình đã đến mức quá nguy hiểm, ông Dung, một mặt trình cho Tổng Thống Diệm biết, một mặt gửi phu nhân ra tin cho ông Cẩn hay. Đề phòng những bất trắc có thể xảy ra khi tình hình bị xáo trộn, ông Dung đề nghị ông Cẩn tạm thời đi nghỉ bất cứ một nước nào trong Vùng Đông Nam Á như Hồng Kông, Đài Loan, Singapore v. v. . . đem theo vài người tín cẩn. Ông Dung sẽ nhờ bạn quen ở các nước này lo chu đáo mọi chuyện cho ông. Chừng ba bốn tháng, nếu tình hình yên ổn sẽ về lại. Được biết tình hình, ông Cẩn sau ba ngày suy nghĩ đã trả lời với bà Dung: "Tao nhất định ở lại làm việc, sống thì sống, chết thì chết, không đi mô hết".
Về phần Tổng Thống Diệm, mặc dầu được biết những đe dọa và nguy hiểm đối với chế độ của mình, ông vẫn cương quyết giữ vững lập trường bảo toàn chủ quyền Quốc Gia và đường lối chính trị độc lập không nhân nhượng. Lập trường cứng rắn ấy đã làm mất đi những hậu thuẫn chính trị từ trước vẫn dành cho Tổng Thống nơi một số chính khách Hoa Kỳ và làm tăng thêm động lực thúc đẩy việc thực hiện một cuộc đảo chánh chống lại ông.
Đầu tháng 6. 1963, Linh Mục Cao Văn Luận sau khi đi một vòng mấy nước Âu Châu và Mỹ, khi trở về đã nói với tôi: "Tình hình hết sức bất lợi và nguy hiểm lắm. Âu Châu không đến nỗi chi. Nhưng tại Hoa Kỳ thì những người đã từng ủng hộ và thân thiết với ông Cụ (Tổng Thống Diệm) như ông Mansfield (Thượng Nghị Sĩ) bây giờ cũng trở lại chống".
Tiếp theo, từ thượng bán niên 1963, một chiến dịch thông tin do những phóng viên còn quá trẻ của Mỹ thực hiện. Hành động của họ, nếu không muốn nói rằng họ được sai đi dọ đường cho việc thực hiện một kế hoạch gì đó, thì người ta phải nhìn nhận rằng họ không có một chút hiểu biết nào về loại chiến tranh khuynh đảo và nổi dậy. Họ không biết hoặc không thèm quan tâm đến những yếu tố như tâm lý, nếp suy nghĩ và tôn ty trật tự xã hội theo quan niệm Khổng Giáo của Dân Tộc Việt Nam, và đặc biệt với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Họ đã nói, viết về chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đủ điều theo tầm hiểu biết hạn hẹp và lối nhìn thiên kiến của họ. Đến khi vụ "biến động cờ Phật Giáo" bùng nổ thì những phóng viên này đã thực sự trở thành đội quân xung kích của trận chiến xóa bỏ nền Đệ I Cộng Hòa Việt Nam. Họ tích cực khai thác, sử dụng biến động này làm vũ khí đánh thẳng vào nhà lãnh đạo chế độ ngay tại Trung Tâm Thủ Đô Sài Gòn.
Khi xảy ra tai nạn bi thảm tại Đài Phát Thanh Huế, ông Ngô Đình Nhu thấy ngay âm mưu thực hiện cuộc đảo chánh chống lại nền Đệ I Cộng Hòa đã thực sự được khởi động. Ông nói với ông Cao Xuân Vỹ: "Họ dùng tôn giáo để đánh mình thế này thì mình chết rồi". Và ít tuần sau, theo Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp Sĩ Quan Tùy Viện của ông Nhu, trong cuộc họp hàng tuần (ngày thứ hai) tại Bộ Tổng Tham Mưu với các Tướng lãnh, ông đã nói thẳng với họ:
"Nếu trong các anh ai thấy có khả năng đảo chánh để làm gì cho đất nước tốt hơn Chính Phủ này thì cứ làm. Tôi sẵn sàng phò tá. Nhưng nếu làm do sự xúi dục của ngoại bang thì đừng làm. Bây giờ ngoại bang nói Chính Phủ này thế này thế nọ, mai mốt họ cũng nói những chính phủ kế tiếp như vậy. Và cứ thế, đất nước sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn".
Đến ngày 23. 7. 1963, tại Suối Lồ Ô, khi được các Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược khóa XIII hỏi về tình hình những biến động được gọi là "cuộc tranh đấu của Phật Giáo". Ông Nhu cũng đã công khai nói đến một âm mưu đảo chánh đang được thực hiện từ cả hai phía: Việt Nam và Mỹ.
Về phía Việt Nam, sau khi nói về kỹ thuật của cuộc "đấu tranh mang danh Phật Giáo" là: Cứ gây nên những xáo trộn, bắt buộc lực lượng bảo vệ anh ninh phải đối phó. Càng xáo trộn càng phải đối phó, càng đối phó càng va chạm, càng gây bất mãn, phẫn nộ, tạo nên tình hình thuận lợi cho một cuộc đảo chánh, ông nói:
". . . Cho nên đường lối vận động của bên Tổng Hội Phật Giáo nhằm tiến tới một cuộc đảo chính rất là tinh vi, rất có kết quả. . . "
Về tương lai của Tổng Hội Phật Giáo ông cũng tiên đoán:
"Theo ý tôi thì cái chính phủ này, cái chính phủ cừ nhừ này, là Chính Phủ duy nhất có thể bảo đảm sự sinh tồn và thống nhất của Tổng Hội Phật Giáo. Cái Chính Phủ này là Chính Phủ mà Tổng Hội Phật Giáo ưng lật đi, chính cái Chính Phủ này mới bảo đảm sự sống còn cho anh em bên Tổng Hội Phật Giáo. Nếu Chính Phủ này mất mà Chính Phủ khác lên thì không biết sẽ xảy ra chuyện gì đối với bên Phật Giáo".
Về phía người Mỹ, ông nói:
". . . tất cả thông tấn xã của Mỹ hoàn toàn tuyên truyền một chiều. Còn bên ta ngắn cổ kêu không thấu trời, mình nói ai mà nghe. Các thông tấn ngoại quốc hoàn toàn dìm công việc của chúng ta. Họ không nói gì đến lập trường của Chính Phủ, chỉ nói đến những gì bên Tổng Hội Phật Giáo đưa ra. Việc đó nhằm âm mưu nào thì anh em cũng dễ hiểu".
Và trước đó, ngày 9 tháng 7 năm 1963, trong buổi lễ khai mạc lớp huấn luyện cán bộ Ấp Chiến Lược khóa XIII này, ông cũng đã tiên đoán đúng thời điểm những thế lực chủ mưu cuộc đảo chánh toan tính. Ông xác quyết:
"Chúng tôi xác nhận lại một lần nữa là, mấy tháng tới đây, cho đến cuối năm 1963 là những tháng quyết định số mạng của Dân Tộc mình".
Với Tổng Thống Diệm, dù biết rằng lý do tôn giáo đã được khai thác trong những bất ổn này là một mối nguy quá lớn cho chế độ. Nhưng ông vẫn nhất quyết không nhượng bộ những đòi hỏi phạm tới chủ quyền đất nước. Ông tiếp tục giải quyết mọi vấn đề nội bộ theo đường lối của Chính Phủ.
Khi được biết có dư luận nói rằng: Tổng Thống Kennedy đưa ông Henry Cabot Lodge qua làm Đại Sứ thay ông Nolting với sứ mạng tổ chức đảo chánh lật đổ mình, Tổng Thống Diệm nói với ông Nguyễn Đình Thuần:
"Họ có thể gửi qua đây một chục ông Lodge, nhưng không khi nào tôi chịu để cho người ta làm nhục tôi hay Dân Tộc mình, dù họ có chĩa đại bác bắn vào Dinh này". (The Year Of The Hare. Trang 37)
Sau khi ông Cabot Lodge nhận chức Đại Sứ, giữa tháng 9. 1963, ông Ralt Johnson, một trong hai Cố Vấn của Bộ Nội Vụ, (người kia là ông Conein, kẻ móc nối các Tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963) và là Cố Vấn Lực Lượng Võ Trang Nhân Dân, ra Huế gặp tôi. Ông này vốn tính tình có vẻ cởi mở và đối với tôi khá thân tình, từ khi ông giữ vai trò Cố Vấn Lực Lượng Võ Trang Nhân Dân. Mỗi lần đến gặp tôi, vừa vào tới cổng đã giơ tay chào "Hi" và cười hể hả. Lần này ông đến với vẻ mặt tỏ rõ nét suy tư khác thường. Vào trong nhà vừa ngồi xuống ghế ông nói ngay:
- Hôm nay tôi ra gặp anh vì một việc rất quan trọng.
Cướp lời ông tôi nói đùa:
- Thấy nét mặt anh tôi biết là quan trọng rồi.
Ông lặng lẽ rút từ trong túi ra một miếng giấy đưa cho tôi:
- Anh đọc cái này đi rồi tôi sẽ cho anh biết mục đích tôi ra gặp anh hôm nay.
Miếng giấy ghi trích đoạn của hai Công Điện Hoa Thịnh Đốn gửi Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn. Nội dung:
1. Công điện thứ nhất: ". . . Nếu Diệm vẫn ngoan cố không thay đổi thì chúng ta phải chọn quyết định ngay cả Diệm cũng không được duy trì". (Công Điện ngày 24. 8. 1963, bật đèn xanh cho ông Lodge khuyến khích và hỗ trợ một cuộc đảo chánh. Công Điện này đã được nhiều tài liệu nói tới)
2. Công điện thứ hai: "Phải tìm mọi cách giữ Diệm lại. Vì miền Nam Việt Nam không có Diệm thì không còn biểu tượng chống Cộng Sản". (Công Điện này chưa thấy tài liệu nào nói đến. Một dịp đến Maryland năm 1995, tôi hỏi thăm tìm gặp ông Ralf Johnson, thì được cho biết ông Johnson đã qua đời mấy năm trước rồi).
Sau khi nhận miếng giấy tôi trao lại, ông Johnson nói:
- Anh thấy đó, chúng tôi nhận được hai lệnh trái ngược hẳn nhau. Dĩ nhiên chúng tôi phải thi hành lệnh mới nhất. Để có thể thi hành lệnh mới này, chúng tôi nghĩ chỉ có cách đề nghị Tổng Thống sửa đổi một chút trong Bản Hiến Pháp Việt Nam, để có thể đặt thêm một Thủ Tướng phụ giúp cho Tổng Thống. Giải pháp này nhằm lúc gặp tình hình quá khó khăn, chúng ta chỉ cần thay Thủ Tướng, còn Tổng Thống vẫn tại vị. Đây là một đề nghị hoàn toàn do thiện chí của chúng tôi. Và để chứng tỏ chúng tôi không có ý can thiệp vào vấn đề nội bộ của Chính Phủ Việt Nam, chúng tôi không có ý kiến gì về vấn đề nhân sự. Vị Thủ Tướng hoàn toàn do Tổng Thống tự lựa chọn và chỉ định.
Chúng tôi đã nhờ tất cả những người mà chúng tôi biết vốn được Tổng Thống nể trọng và tín nhiệm, trình với Tổng Thống đề nghị trên đây, nhưng tất cả đều không được Tổng Thống chấp thuận. Chúng tôi thấy chỉ còn một người duy nhất có thể được Tổng Thống nghe là ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn. Vì thế hôm nay tôi được lệnh ra đây nhờ anh trình với ông Cố Vấn đề nghị trên đây của chúng tôi.
Và ông cũng khéo léo gợi ý:
- Tôi cũng muốn nói với anh rằng, tình hình rất nghiêm trọng. Chính phủ Mỹ cử ông Cabot Lodge qua làm Đại Sứ ở đây, thì cũng không khác gì Chính Phủ Việt Nam cử ông Ngô Đình Nhu đi làm Đại Sứ ở nước nào đó.
Tôi trả lời ông Johnson:
- Vấn đề quả thật quan trọng. Tôi sẽ trình ông Cố Vấn tất cả những điều anh đã nói với tôi ngay trong chiều hôm nay. Hy vọng rằng công tác của anh sẽ đạt kết quả tốt.
Tuy nói với ông Johnson như vậy, nhưng trong đầu tôi nghi ngờ chưa chắc ông Cẩn sẽ có hành động gì đối với đề nghị vừa kể của người Mỹ. Vì lúc này ông Cẩn không còn muốn can dự gì vào công việc của chính quyền nữa.
Nhưng tôi đã nghĩ sai. Buổi chiều tôi vào trình ông Cẩn đề nghị nói trên của Tòa Đại Sứ Mỹ. Sau khi nghe tôi trình bày, ông cười khẩy nói: "Họ muốn biến mình thành bù nhìn đây. Nhưng tình thế này thì cứ chấp nhận, khi đã ổn định, thay đổi lại mấy hồi. Không biết ông Cụ có chịu nghe ý kiến của mình không? Nhưng chú cứ nên viết thơ trình ông Cụ, lát nữa đưa xuống cho tôi". Quả thật điều ông Cẩn nghi ngờ đã xảy ra, ý kiến của ông không được Tổng Thống Diệm chấp thuận.
Điều ông Johnson nói người Mỹ không có ý kiến về nhân vật sẽ đảm nhiệm chức vụ Thủ Tướng, vì không muốn can thiệp vào chuyện nội bộ của Chính Phủ Việt Nam. Thật ra không phải như vậy. Sau này khi một số hồ sơ mật được bạch hóa, người ta mới thấy đây chỉ là một thiện chí được nói ra cốt để che đậy một âm mưu đã được sắp đặt. Vì họ đã biết rằng, trong số các Bộ Trưởng trong Chính Phủ của Tổng Thống Diệm lúc ấy, người được ông tin tưởng nhất và có đủ yếu tố để được chỉ định giữ chức vụ Thủ Tướng, nếu ông chấp thuận đề nghị của họ, là Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống kiêm Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Nguyễn Đình Thuần. Về phía họ, CIA đã nắm chắc ông Thuần, đã nhận được nhiều tin tức về nội tình Chính Phủ Việt Nam từ ông ta. Trong Biến Cố Chính Trị Việt Nam Hiện Đại, Giáo Sư Tiến Sĩ Sử Học Phạm Văn Lưu cho biết, Roger Hilsman, Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao phụ trách Viễn Đông Vụ tiết lộ, chính ông Thuần đã tung tin ông Nhu hút thuốc phiện nhiều, và đã trở nên điện loạn. Một số nhân vật quan trọng trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cũng đã lựa chọn ông Thuần, để đưa ông ta lên ghế Thủ Tướng. (Biến Cố chính Trị Việt Nam Hiện Đại. Trang 237)
Riêng Tổng Thống Diệm, lúc này ông đã biết rất rõ về một âm mưu đảo chánh lật đổ chế độ và sự an nguy của cá nhân mình. Nhưng ông vẫn cương quyết bảo vệ đến cùng chủ quyền Quốc Gia, như lời ông tâm sự với ông Võ Như Nguyện dịp ghé về chào thăm thân mẫu, nhân một chuyến kinh lý vùng Cao Nguyên vào tháng 9. 1963, mà tôi được ông kể lại như sau đây:
Lời Tổng Thống Diệm: "Trên trường quốc tế, Hoa Kỳ đang cải tổ mọi kế hoạch cần thiết về chính trị, Việt Nam cũng là một vấn đề mà Hoa Kỳ muốn thay đổi ít nhiều.
Chính trị gia Hoa Kỳ và tôi đã có nhiều lần đàm thoại và tranh luận quan trọng. Tôi đã thỏa mãn vài ba điều kiện và cũng không chịu chấp nhận những yêu cầu không thích hợp với chiều hướng của Đất Nước trong hiện tại.
Tôi biết những biến cố rắc rối có thể xảy ra, nhưng tôi vẫn giữ lập trường chính đáng của tôi. Những lời lẽ và cử chỉ cương nghị của tôi Hoa Kỳ không bằng lòng.
Dù gặp trường hợp khó khăn, gay cấn, hoặc nguy hiểm, tôi nhất quyết bảo tồn uy tín của Quốc Gia, của Dân Tộc, kể cả uy tín của Vị Nguyên Thủ Quốc Gia.
Năm 1961 Hoa Kỳ đã yêu cầu gửi Quân Đội sang chiến đấu trên đất nước ta. Nếu tôi nhượng bộ ngay lúc đó thì còn gì là Chính Nghĩa, con gì là Độc Lập.
Thủ đoạn của cường quốc, đối phó cho chính đáng không phải là dễ dàng. Thể thống của Việt Nam, dù là một Tiểu Quốc, chẳng phải là nhỏ".
Suốt thời gian Tổng Thống tâm tình với tôi (ông Nguyện), từ 5 giờ chiều đến 10 giờ khuya, luôn có Sĩ Quan Tùy Viên Lê Châu Lộc đứng sau lưng Tổng Thống.
Tôi xin được mở dấu ngoặc ở đây để nói sơ qua về sự liên hệ giữa Tổng Thống Diệm và ông Võ Như Nguyện.
Ông Võ Như Nguyện là con trai trưởng của cụ Cử Võ Bá Hạp, một nhà hoạt động cách mạng cùng thời với Cụ Phan Bội Châu và là đồng chí thiết cốt của Cụ Phan. Khi Cụ Phan bị thực dân Pháp quản thúc tại Bến Ngự, ông Nguyện là một thiếu niên 15, 16 tuổi thường được thân phụ sai đến liên lạc, tiếp tế cho Cụ Phan. Ông đã thấy ông Ngô Đình Diệm lần đầu tiên tại nhà Cụ Phan. Và từ năm 1940, ông Nguyện đã theo giúp ông Diệm.
Càng gần đến thời điểm thực hiện cuộc đảo chánh, người Mỹ và nhóm Tướng lãnh âm mưu, càng áp dụng nhiều kế hoạch nhằm cô lập các nhà lãnh đạo chế độ. Một trong những kế hoạch ấy là gây nghi ngờ, chia rẽ nhau trong thành phần những người gần gũi với các vị lãnh đạo. Đồng thời làm cho các vị này giảm bớt hoặc mất lòng tin ở những người xung quanh mình. Trong số nạn nhân của kế hoạch này có tôi. Phần Trung Tá Phạm Thứ Đường, Chánh Văn Phòng ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, trong một dịp đến thăm ông tại Boston, ông Đường buồn rầu cho tôi biết, những ngày cuối cùng trước đảo chánh, ông đã bị một vài anh em nghi ngờ, dè chừng. Ông Dương Văn Hiếu, Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, người có công đem lại kết quả "kỳ diệu" cho chính sách "Cải Tạo Và Sử Dụng Những Người Kháng Chiến Cũ" của ông Cẩn, cũng bị những hiểu lầm "nhức đầu" ngay từ phía ông Cẩn.
Về trường hợp của tôi, ngày 20. 10. 1963 tôi nhận được lệnh Tổng Thống gọi vào trình diện. Vào Sài Gòn ngày 22, sáng 23 tôi đến Dinh Gia Long xin trình diện Tổng Thống mà quên rằng ngày này là ngày kỷ niệm mừng kết quả Trưng Cầu Dân Ý 23 và Quốc Khánh 26 tháng 10. Tôi ngồi đợi trong Phòng Sĩ Quan Tùy Viên từ 9 giờ sáng đến hơn 12 giờ trưa. Ngoại Giao Đoàn, Phái Đoàn Chính Phủ, Quốc Hội và các cơ quan đoàn thể vào chúc mừng Tổng Thống liên tục, nên không có giờ nào hở để tôi có thể vào trình diện ông. Đại Úy Lê Châu Lộc Sĩ Quan Tùy viên nói với tôi: Lịch tiếp khách của Tổng Thống hôm nay phải đến 3 giờ 30 mới dứt. Anh về ăn trưa nghỉ ngơi, chừng 3 giờ lên lại thì vừa.
Nghe lời Đại Úy Lộc, 3 giờ chiều tôi lên lại Dinh Gia Long. Vừa tới Phòng Sĩ Quan Tùy Viên thì tôi thấy Tướng Tôn Thất Đính hướng dẫn Phái Đoàn Quân Đoàn III từ trong phòng khách Dinh Gia Long đi ra.
Thấy tôi, Tướng Đính bước nhanh lại nắm hai vai tôi lắc mạnh:
- Bác vô răng chừ?
- Thưa Thiếu Tướng tôi vô bữa qua.
- Vô mần chi rứa?
- Thưa Tổng Thống kêu vô trình diện, tôi chưa được gặp nên chưa biết chuyện gì.
Tướng Đính nói dồn dập: "Được gặp bác ở đây may quá. Tôi có chuyện rất cần muốn nói với bác". Và ông chụp cuốn sổ trên bàn Sĩ Quan Tùy Viên, ghi số điện thoại, xé tờ giấy đưa cho tôi, ông nói:
- Đây là số điện thoại của tôi tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Sau khi bác gặp Tổng Thống, bất cứ giờ nào, gọi cho tôi ở số điện thoại này, tôi sẽ gặp bác ngay.
Tiếp khách xong. Tổng Thống nghỉ ngơi ít phút, 4 giờ, sau khi trình, Đại Úy Lộc dẫn tôi vào. Tổng Thống ngồi trước bàn làm việc, tôi tới gần đứng nghiêm chào xưng tên tên trình diện theo kiểu nhà binh. Không ngước lên nhìn tôi, với giọng lạnh lùng ông hỏi:
- Nghe nói ở ngoài nớ anh liên lạc với Mỹ nhiều lắm phải không?
Tôi thoáng nghĩ trong đầu, tình hình này mà đứa nào đánh mình cú đòn này thì độc thật. Nhưng tôi bình tĩnh thưa lại:
- Kính thưa Tổng Thống, ở ngoài nớ, vì con có biết năm ba tiếng Mỹ, nên mỗi khi người Mỹ họ có điều chi muốn hỏi ý kiến ông Cậu, họ đều đến với con. Và khi ông Cậu có điều chi muốn nói mới họ, thì con cũng phải đến với họ.
- Anh thấy thái độ của họ ra răng?
- Kính thưa, như Tổng Thống đã biết, ngay từ khi vụ cờ Phật Giáo xảy ra, thái độ của họ rõ ràng ngả về phía chống đối.
Thấy Tổng Thống có vẻ suy nghĩ, không nói gì, tôi trình tiếp:
- Kính thưa Tổng Thống, tuy vậy nhưng hồi giữa tháng 9 mới rồi, họ có cho người ra nhờ ông Cậu con trình xin Tổng Thống thay đổi. . . Tôi vừa nói đến đó thì Tổng Thống đập mạnh tay xuống bàn, dằn tiếng nói với vẻ rất tức giận.
- . . . Đất nước mình chứ đất nước chi họ mà họ muốn mần chi thì mần. Mai mốt tôi đuổi đi hết cho coi.
Chừng một phút sau, cơn giận hạ, Tổng Thống dịu giọng nói:
- Bữa ni gọi anh vô là có ý cho anh biết, ý tôi muốn cho chú Cẩn ngoài nớ nghỉ ngơi, đừng mần việc chi nữa. Ngoài nớ trước kia có công việc bên Lào, bây chừ tình hình bên Lào như rứa mình mô có mần chi được nữa. Chú Cẩn thì đau lui đau tới hoài. Tôi muốn cho chú ấy đi nghỉ một thời gian. Các anh trước ở mô chừ về lại nấy thôi.
Thấy "tình hình" có vẻ thuận lợi tôi trình luôn:
- Kính thưa Tổng Thống, nếu Tổng Thống đã quyết định như vậy thì xin cho con được giải ngũ. Vì khi vào lính còn được đào tạo theo lối Pháp, nay Quân Đội của mình đã được huấn luyện theo lối Mỹ. Nếu trở về lại Quân Đội mần răng con chỉ huy được. Tổng Thống không trả lời điều tôi xin mà lại hỏi:
- Năm nay anh mấy tuổi?
- Kính thưa Tổng Thống năm nay con 35 tuổi.
- Còn trẻ quá, giải ngũ mần chi. Để đó ta lo cho. Ừ, thôi về trình cho chú Cẩn biết tôi quyết định như rứa.
Không biết Tổng Thống có biết cách làm việc của ông Cẩn không, nhưng tôi không thấy ông nói gì rõ ràng về phía Hành Chánh của ông Hồ Đắc Trọng.
Tôi xin được mở dấu ngoặc ở đây để nói tóm tắt về lý do Tổng Thống Diệm quyết định giải tán bộ phận văn phòng của ông Cẩn do tôi phụ trách, mà tôi chỉ mới được biết cách đây ít năm.
Năm 1996 hay 1997 gì đó, tôi không nhớ chính xác cựu Đại Tá Nguyễn Mâu đã viết một bài đăng trên một nhật báo tại San Jose, nơi ông định cư. Qua bài báo này ông Mâu xin lỗi tôi vì ông đã nhận xét và báo cáo sai lầm về tôi với Tổng Thống Diệm.
Số là, trước khi xảy ra cuộc đảo chánh 1.11.1963 chừng ba bốn tháng, Thiếu Tá Mâu từ Sài Gòn được đưa ra giữ chức Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Thị Trưởng Huế. Thời gian ngắn sau, ông thấy tại văn phòng ông Cẩn có hai người là ông Hồ Đắc Trọng và tôi, nhưng chỉ có tôi hay giao thiệp với người Mỹ. Dựa vào lý lịch của tôi, ông Mâu nghi ngờ tôi đã bị người Mỹ mua chuộc. Việc tôi hay liên lạc với người Mỹ trong tình hình lúc ấy là điều đáng nghi ngờ có hại cho chế độ. Ông đã trình Tổng Thống Diệm nhận xét của ông và đề nghị đưa tôi đi khỏi Huế.
Nghe lời ông Mâu báo cáo, Tổng Thống Diệm gọi tôi vào trình diện và tỏ rõ thái độ nghi ngờ lòng trung thành của tôi đối với ông qua việc trả tôi về lại Quân Đội.
Chắc hẳn có không ít anh em bị rơi vào tình trạng như tôi, nhưng những người báo cáo sai lầm lại không có được sự can đảm và ngay thẳng nói ra sự thật như cựu Đại Tá Nguyễn Mâu. Tôi xin thành thật cám ơn cựu Đại Tá Nguyễn Mâu đã giải tỏa cho tôi điều thắc mắc luôn vấn vương trong tôi từ mấy chục năm qua.
Ra khỏi Phòng Tổng Thống, nhớ lời Tướng Đính nói cần gặp, tôi vào Phòng Sĩ Quan Tùy Viên mượn điện thoại gọi cho ông. Ông mời tôi về tư dinh ở số 5 Đường Nguyễn Du.
Từ Dinh Gia Long tôi lái xe thẳng đến số 5 Nguyễn Du được Đại Úy Nguyễn Duy Nghệ Tùy Viên của Tướng Đính đứng đón ngoài cổng. Anh Nghệ dẫn tôi vào phòng khách. Hai anh em chúng tôi vừa ngồi nói chuyện với nhau chừng 5 phút thì Tướng Đính về tới. Ông kéo tay tôi dẫn lên lầu, đưa vào phòng ngủ của ông, đóng cửa lại và nói cách rất tâm tình:
"Bữa ni được gặp bác tôi mừng quá, vì có điều bực bội trong lòng mà không dám nói với ai. Khi giao cho tôi làm Tổng Trấn Sài Gòn-Gia Định, ông Cụ và ông Cố Vấn (Nhu) hứa sau khi xong việc sẽ cho tôi lên Trung Tướng. Đến nay mọi việc đã giải quyết tốt đẹp thì hai ông làm lơ không nói chi đến chuyện đó cả làm cho tôi bị kẹt. Một bên thì gia đình trách móc tiô là phản bội bà con, một bên thì bạn bè chúng nó chửi tôi ham tiền ham chức đàn áp Phật Giáo. Tôi vừa mắc cỡ vừa bực mình. Trong khi thấy tình hình càng lúc càng nguy hiểm và không biết nói với ai. Nếu ông Cụ và ông Cố Vấn cứ đưa tình hình kéo dài như ri, thì thế nào cũng xảy ra đảo chánh. Mà có đảo chánh thì Ba Đính phải tham gia để cứu anh em, nếu không thì chết hết".
Ông nói khá nhiều nhưng tôi thấy chung quy nhất vào hai điểm
1. Không được lên Trung Tướng
2. Tham gia đảo chánh.
Tôi hiểu ý ông muốn dò xem ông Cẩn cho tôi vào gặp Tổng Thống về chuyện gì. Vì trước đó ít ngày ông đã ra gặp ông Cẩn một các chớp nhoáng. Có lẽ ông sợ ông Cẩn cho tôi vào trình ông Diệm câu chuyện ông đã trình với ông Cẩn trong cuộc gặp gỡ chớp nhoáng này. Nhưng ông lại khéo léo không đề cập tới việc tôi vào gặp Tổng Thống. Nương theo sự khéo léo của ông tôi cũng lờ luôn, không đả động gì đến chuyện ấy.
Nghe Tướng Đính tâm sự, mặc dầu lúc đó trong đầu tôi đang quay cuồng nhiều ý nghĩ khó tả về thái độ của Tổng Thống Diệm đối với tôi khi tôi vào trình diện ông. Một ý nghĩ đậm nét nhất là tôi thấy suốt 10 năm được biết và làm việc với ông Ngô Đình Cẩn, trong đó có 8 năm làm việc bên cạnh ông, có lúc vui có khi buồn, đến giờ này lòng ngay thẳng của mình vẫn không được "bảo chứng". Tuy nhiên, may mắn tôi vẫn còn đủ bình tĩnh suy xét đắn đo tự nhủ, không thể hành động trái với những gì mình đã được biết về họ theo lương tâm một người Công Giáo. Tôi cố gạt qua một bên các ý nghĩ đang nhào lộn trong đầu, uốn ba tấc lưỡi để trần tĩnh ông Đính.
Tôi nói với ông:
- Theo tôi, điều ông Cụ và ông Cố Vấn hứa với Thiếu Tướng trước sau gì cũng sẽ có. Tôi nghĩ sở dĩ hai ông chưa gắn lon Trung Tướng cho Thiếu Tướng là vì muốn giữ uy tín cho Chính Phủ cũng như cho chính Thiếu Tướng. Vừa mới xong việc mà thăng cấp cho Thiếu Tướng ngay thì sẽ bị hiểu lầm là Chính Phủ dùng chức quyền mua chuộc Thiếu Tướng để đàn áp Phật Giáo. Còn với Thiếu Tướng, những người chống đối sẽ hô hoán lên Thiếu Tường là tay sai, là tên đánh mướn. Thiếu Tướng thừa biết từ Tá lên Tướng mới khó. Vậy mà với Đại Tá Tôn Thất Đính chỉ từ 6 giờ chiều bữa trước đến 6 giờ sáng bữa sau là đã có 2 sao rồi. Xin Thiếu Tướng hãy bình tĩnh, tôi sẽ cố gắng bằng mọi cách làm cho ông Cụ và ông Cố Vấn hiểu hoàn cảnh của Thiếu Tướng. Riêng ông Cậu, về lại Huế tôi sẽ trình cho ông biết ngay chuyện này, để ông có thể can thiệp với ông Cụ và ông Cố Vấn cho Thiếu Tướng càng sớm càng hay. Còn việc Thiếu Tướng sẽ tham gia đảo chánh nếu việc ấy xảy ra. Theo tôi nghĩ, bất cứ một cuộc binh biến nào xảy ra ở Sài Gòn này mà không có Thiếu Tướng tham dự, tôi e khó thành công được. Vì ngoài Thiếu Tướng ra, quanh đây ai có đủ lực lượng làm chuyện ấy?Một lần nữa tôi xin Thiếu Tướng bình tĩnh và suy nghĩ cho thật thấu đáo về mọi quyết định của Thiếu Tướng trong lúc này. Vì theo chỗ tôi biết, tương lai của Thiếu Tướng còn dài và sáng sủa lắm.
Khi tôi cáo biệt ra về, tiễn tôi ra đến cửa ông hỏi:
- Khi mô bác về lại Huế?
- Thưa tôi còn ở lại qua ngày Quốc Khánh, sáng 27 tôi mới về.
Trên đường lái xe về nhà người bà con ở trước Trường đua Phú Thọ, tôi suy nghĩ miên man cố tìm xem vì lý do gì mà Tướng Đính lại thổ lộ tâm tình với tôi một cách khá chân thành như vậy? Đem chuyện tham gia đảo chánh để hù dọa câu móc cặp lon Trung Tướng? Đem chuyện ông cho là thất hứa của ông Diệm và ông Nhu sang tai ông Cẩn, mong ông Cẩn can thiệp như đã can thiệp cho ông lên Thiếu Tướng, để sớm được thỏa mãn tự ái? Nhưng ông mới gặp ông Cẩn đây, không lẽ ông không biết con đường từ Phú Cam vào đến Dinh Gia Long "băng tuyết" đã đóng khá dày rồi!?
Buổi tối đi ăn cơm tối với Đại Tá Lê Quang Tung tại nhà hàng Chung Nam bên cạnh trụ sở Quốc Hội, chúng tôi vào ngồi trong một phòng nhỏ. Tôi cho ông Tung biết kết quả việc tôi gặp Tổng Thống Diệm, nhưng không hé lộ tâm trạng buồn phiền của tôi lúc ấy. Tôi bình thảm trao đổi với ông Tung một số sự kiện liên quan đến tình hình sôi động lúc bấy giờ. Tiếp theo tôi kể lại chi tiết câu chuyện và thái độ của Tướng Đính khi tâm tình với tôi. Tôi đề nghị ông Tung trình gấp với Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, gắn lon Trung Tướng cho ông Đính nhân ngày Quốc Khánh sắp đến.
Về thái độ của ông Đính, ông tung nói:
- Tính ông Đính anh biết mà, bô lô ba la vậy thôi chứ không có chi mô.
- Tôi biết anh hiểu ông Đính hơn tôi. Nhưng lần này tôi thấy thái độ của ông ấy không phải bô lô bô la kiểu bốc đồng như anh em mình thường thấy đâu. Anh cần quan tâm trường hợp của ông Đính lúc này. Theo tôi, ông Cụ và ông Cố Vấn đã hứa thì trước sau gì cũng phải thực hiện lời hứa. Chi bằng xin hai ông thực hiện lời hứa với ông Đính ngay lúc này đi để trừ mối họa mà anh em mình đang lo nghĩ.
- Anh yên chí đi. Mình đã có đầy đủ tin tức về nhóm phản loạn. Có kế hoạch đối phó, đợi được chấp thuận là thực hiện thôi.
Sáng hôm sau (24. 10) Tướng Trần Văn Đôn, Tư Lệnh Lục Quân, cho Đại Úy Phạm Văn Tuy (còn ở Việt Nam) Chánh Văn Phòng của ông đến đón tôi lên gặp ông tại Bộ Tư Lệnh Lục Quân. Tướng Đôn lúc này nắm Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, vì Đại Tướng Lê Văn Tỵ đi chữa bệnh tại Hoa Kỳ. Vào gặp Tướng Đôn ông hỏi tôi:
- Anh Minh đã biết ông Cụ cho anh đi đâu chưa?
- Thưa Trung Tướng chưa. Chiều bữa qua khi tôi xin giải ngũ, ông Cụ không cho và nói là để ông lo cho, nhưng không biết là lo thế nào.
- Chiều bữa qua ông Cụ gọi tôi bảo cho anh về Trường Đà Lạt một thời gian, quan sát Sinh Viên Sĩ Quan học tập cho biết cách thức chỉ huy theo lối Mỹ. Tôi gọi báo cho thằng Huyến, nó sợ quá nói: "Chết cha! Không biết chuyện chi mà lại cho ông Minh lên theo dõi tôi". Tôi cười và nói với nó: "Yên tâm, sự việc không phải như thế đâu".
Lúc ấy tôi chưa hiểu tại sao ông Huyến lại lo sợ khi hay tin tôi được tuyên chuyển về Trường Đà Lạt. Sau này tôi mới biết, khi ấy Đại Tá Huyến đã nằm trong tổ chức đảo chánh của Tướng Đôn rồi.
Tướng Đôn hỏi tiếp:
- Anh muốn khi nào lên Đà Lạt?
- Thưa Trung Tướng, 27 này tôi về lại Huế, sắp xếp công chuyện, thu dọn đồ đạc, thu xếp phương tiện chuyên chở v. v. . . chắc cũng mất 4, 5 bữa. Đưa vợ con tôi vô đây lo nơi ăn ở, học hành cho các cháu cũng phải mất chừng mười ngày. Xin Trung Tướng cho khoảng 10 tháng 11 tôi trình diện Trường Đà Lạt.
- Được, tôi sẽ cho làm Sự Vụ Lệnh để anh trình diện Trường Đà Lạt ngày 10. Sau khi vô đây nếu thấy cần thêm thời gian, anh cho tôi biết.
Chiều 26 tháng 10, Tướng Đính lại cho xe đón tôi lên nhà và như lần trước, ông cũng dẫn tôi lên phòng ngủ nói lại những điều tâm tình đã thổ lộ. Buổi tối về nhà người bà con, qua điện thoại tôi cho Đại Tá Tung biết sự kiện này, và nhấn mạnh với ông về việc trình xin Tổng Thống Diệm gắn lon Trung Tướng gấp cho ông Đính. Thấy tôi có vẻ nôn nóng, Đại Tá Tung nói:
- Anh cứ yên chí về đi, tôi sẽ thu xếp gấp việc này và sẽ tin cho anh biết kết quả.
Ngày 27 về lại Huế tôi vào trình cho ông Cẩn biết quyết định của Tổng Thống Diệm, ông ngồi lặng thinh một lúc rồi hỏi:
- Vô trong nớ rồi vợ con chú nhà cửa mô mà ở?
- Thưa Cậu lúc này con cũng chưa biết nên đem theo vợ con lên Đà Lạt hay để lại ở Sài Gòn. Nhưng ở đâu thì cũng có Cư Xá Sĩ Quan.
- Xin được cư xá mà ở có dễ không? Không chi bằng có một căn nhà riêng của mình mà ở. Vô trong nớ kiếm căn mô vừa vừa cỡ năm trăm ngàn, đến Đặng Văn Quốc mượn tiền mua lấy một căn. Tôi sẽ trả lại anh ta sau.
Rất tiếc tình cảm của ông Cẩn dành cho gia đình tôi mãi mải vẫn là tình cảm. Vì thời thế đổi thay ông không kịp có cơ hội giúp chúng tôi.
Sáng 28 khi thu dọn văn phòng thấy còn mấy việc cần xin chỉ thị của ông Cẩn. Tôi xuống tìm ông thì gặp Tướng Trần Văn Đôn từ trong nhà đi ra, ông nói với tôi: Moa ra mừng sinh nhật ông Cậu, bây giờ moa phải bay vô Nha Trang phơi cặp giò, mấy tháng nay cặp giò nhức quá. Sau này trong một dịp gặp lại ông ở Sài Gòn, ông cho tôi biết chuyến đi Nha Trang của ông hôm ấy, không phải để phơi cặp giò, mà là để cho Đại Tá Nguyễn Vĩnh Xuân biết ngày giờ phát khởi cuộc đảo chánh.
Sáng 30, khoảng 10 giờ, văn phòng Tướng Đỗ Cao Trí liên lạc xin cho Tướng Khánh vào gặp ông Cẩn nội trong sáng nay vì ông phải về lại Pleiku trong ngày. Tôi mời Tướng Khánh đến ngay và lên đón ông trước sân nhà ông Cẩn. Tướng Khánh đến ôm theo bó bông Lay-ơn khá lớn, ông nói với tôi: "Bữa nay trên Cao Nguyên mưa lớn mây thấp quá, moa phải tự lái máy bay lấy để ra cho kịp mừng sinh nhật ông Cậu". (Sinh nhật ông Cậu nhằm ngày 1. 11).
Sau khi Tướng Khánh ra về, ông Cẩn bảo tôi đem một chai champange và hai cái tré qua nhà Tướng Trí nói với hai Tướng Trí và Khánh: "Ông Cậu biếu hai Thiếu Tướng dùng cho vui".
Phần Đại Tá Lê Quang Tung, có lẽ ông biết tâm trạng của tôi đang hết sức quan tâm đến việc giải quyết tình trạng của Tướng Đính. Trưa ngày 30 tháng 10, qua văn phòng của Lực Lượng Đặc Biệt tại Huế, ông gửi cho tôi một điện văn với nội dung:
"Trong này tất cả anh em đã gặp nhau, có cả anh Đính. Rất vui vẻ. Anh yên tâm".

PN99
03-12-2009, 19:40
Chương 3.2



NGÀY ĐẢO CHÁNH 1.11.1963 TẠI HUẾ


Ngày 1 tháng 11 hàng năm là ngày lễ kính các Thánh của người Công Giáo. Dưới chế độ Đệ I Cộng Hòa, ngày lễ này cũng như ngày Khổng Tử, ngày Thích Ca thành đạo, tất cả các cơ quan công quyền được nghỉ nửa ngày. Buổi chiều, khoảng 3 giờ, tôi ra nhà Bưu Điện gửi điện tín cho người bà con ở Sài Gòn, nhờ đón gia đình tôi tại Phi Trường Tân Sơn Nhất chiều hôm sau (2.11). Tôi vừa bước vào nhà Bưu Điện, ông Trưởng Ty vội đến gần nói nhỏ: "May mắn quá Đại Úy ra đúng lúc. Mời Đại Úy vô văn phòng, tôi vừa nhận được một điện tín hỏa tốc, mà không biết thật hay giả nên chưa dám cho đem lên văn phòng". Vào văn phòng, ông Trưởng Ty rút từ hộc kéo ra đưa cho tôi một điện tín và nói: "Đại Úy coi giùm xem điện tín này thật hay giả"?
Tôi cầm đọc, điện tín mang nội dung: "Thủy Quân Lục Chiến làm phản. Nhưng vẫn giữ vững tình hình". Bên dưới ký tên Bằng. Đọc xong, tôi nói với ông Trưởng Ty: Tôi biết ông Bằng, tôi nhận bức điện này (ông Bằng là sĩ quan hầu cận của Tổng Thống Diệm). Cầm bức điện tín tôi lái xe về thẳng nhà ông Cẩn, đọc cho ông nghe và hỏi ông:
- Thưa Cậu, bây giờ Cậu quyết định thế nào? Hay giải quyết như hồi năm 1960?
Trong vụ binh biến 11.11.1960, các Tư Lệnh Quân Đoàn, Sư Đoàn đều vắng mặt. Theo lệnh của ông Cẩn, tôi mời Đại Tá Trần Văn Trung (sau này là Trung Tướng, hiện định cư tại Pháp) đang phụ trách Thanh Niên Cộng Hòa tại miền Trung nắm quyền Tư Lệnh Sư Đoàn I, Thiếu Tá Nguyễn Ấm. Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 6 của Sư Đoàn II nắm quyền Tư Lệnh Sư Đoàn này.
Nhưng lần này ông bảo tôi:
- Chú liên lạc với ông Trí xem sao.
Khi trở ra, tôi cho Đại Úy Tôn Thất Độ, Trưởng Toán An Ninh tư dinh biết tình hình và dặn ông cho tăng cường canh gác cẩn thận hơn. Lên văn phòng tôi liên lạc ngay với Tướng Trí, lúc này ông đang nắm chức Tư Lệnh Quân Đoàn và ngồi ở Đà Nẵng. Tướng Trí cho biết, ông không liên lạc được với Sài Gòn vì mọi đường dây của ông đều bị cắt. Ông đang cố gắng thiết lập một đường dây đặc biệt. Cố gắng dùng đường dây tôi thường liên lạc với Sài Gòn qua Tiểu Đoàn 1 Truyền Tin, đường dây cũng bị cắt.
Sau khi nghe được lời hiệu triệu đồng bào của Tổng Thống do Đài Phát Thanh loan tải lúc khoảng 4 giờ rưỡi chiều, ông Hồ Đắc Trọng và một vài viên chức chính quyền và dân sự tập trung đến văn phòng. Mọi người đều nôn nóng muốn được biết tình hình tại Sài Gòn, nhưng không làm sao có thể có được bất cứ một tin tức nào. Suốt buổi chiều và tối hôm đó tôi liên lạc với Tướng Trí rất nhiều lần, lần nào cũng được ông trả lời "tôi vẫn chưa liên lạc được với Sài Gòn". Đường dây liên lạc của Tòa Đại Biểu Chính Phủ, Tòa Tỉnh Trưởng tất cả đều bị cắt.
Đến khoảng 11 giờ 30 khuya, Tướng Trí gọi điện thoại cho tôi, ông nói: "T ôi vừa nhận được điện thoại của ông Đính, ông nói tôi tin cho anh nhờ anh trình với ông Cố Vấn: Trong Sài Gòn anh em đã thi hành lệnh của ông Cố Vấn". Tôi xuống trình lại ông cẩn lời nhắn trình của Tướng Đính trên đây, ông nói với tôi: "R ứa thì được rồi. Chú yên trí về đi ngủ đi". Và ông cũng đi vào phòng ngủ.
Trở lên văn phòng tôi chuyển cho số anh em đang có mặt, lời của ông Cẩn. Chúng tôi giải tán ra về, tuy chưa biết chuyện gì xảy ra tại Sài Gòn theo thông báo của Tướng Đính. Nhưng mọi người cũng được yên tâm phần nào trước thái độ bình tĩnh của ông Cẩn.
Sáng hôm sau, thứ bảy, ngày 2 tháng 11, tôi đang chuẩn bị lên văn phòng để liên lạc với Tướng Trí xem tình thế nào thì chuông điện thoại trong nhà tôi reo. Lúc ấy khoảng 8 giờ 30. Tôi nhấc điện thoại lên:
Đại Úy Minh tôi nghe.
Người ở đầu dây bên kia nói: Đại Úy chờ máy có Thiếu Tướng Tư Lệnh nói chuyện.
- Thiếu Tướng Trí đây anh Minh.
- Kính chào Thiếu Tướng, Đại Úy Minh tôi nghe.
- Tôi vừa được Hội Đồng Tướng Lãnh cho biết Tổng Thống và ông Cố Vấn Nhu đã tự tử. Hội Đồng nhờ tôi chuyển lời chia buồn tới ông Cố Vấn (Cẩn), và hứa sẽ bảo đảm an ninh hoàn toàn cho ông Cố Vấn. Nhờ anh trình lại cho ông Cố Vấn rõ. Riêng tôi, tôi xin thành thật chia buồn với ông Cố Vấn, và sẽ bảo đảm sự an toàn cho ông Cố Vấn và gia đình.
- Thưa Thiếu Tướng tôi nghe rõ. Cám ơn Thiếu Tướng.
Bỏ điện thoại xuống, tôi vội ra xe lái lên nhà ông Cẩn. Vào đến sân, ông Cẩn đã ngồi đó trên một ghế sa lông bằng ny lông, có Cha Thuận (Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận) cháu ông đứng bên cạnh. Tôi tới gần trình ông hung tin. Ông tỏ vẻ sửng sốt nói:
- Răng lại có thể như rứa được !?
- Thưa Cậu, ông Cụ và ông Cố Vấn không thể nào tự tử được. Nhưng họ đã chính thức báo cho mình như vậy, thì chắc hẳn đã có chuyện gì xảy ra cho ông Cụ và ông Cố Vấn rồi.
Ông không nói gì thêm, đứng dậy đi vào trong nhà. Cha Thuận đứng lại với tôi ít phút rồi ngài cũng vào trong nhà. Tôi trở ra, lên văn phòng, mấy anh em trong văn phòng đang có mặt, tôi cho anh em ai về nhà nấy đợi xem tình hình rõ ràng ra sao.

PN99
03-12-2009, 19:42
Chương 3.3



NHỮNG YẾU TỐ GIÚP CHO CUỘC ĐẢO CHÁNH 1.11.1963 THÀNH CÔNG


1. Tháng 6 năm 1995 nhân một chuyến đến Boston, tôi đến thăm Trung Tá Phạm Thứ Đường, được ông kể lại câu chuyện sau đây:
Cuối tháng 10. 1963, Dinh Gia Long được một Tòa Đại Sứ bạn cung cấp danh sách một số Tướng cầm đầu âm mưu đảo chánh như: Trần Văn Đôn, Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Mai Hữu Xuân, Đại Tá Đỗ Mậu. . . Một kế hoạch hành quân liền được thiết lập để vô hiệu hóa nhóm mưu phản này. Kế hoạch đã được Tổng Thống chấp thuận. Không may, cùng thời gian này, ông Châu (Trung Tá Nguyễn Văn Châu Trưởng Phòng Tùy Viên Quân Sự tại Hoa Thịnh Đốn) từ Mỹ về dự đám tang người em là Linh Mục Nguyễn Văn Soan thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn bị tử nạn xe hơi. Ông Đỗ Mậu khi ấy có lẽ cảm thấy âm mưu tạo phản của ông đã phần nào bị lộ. Ông níu kéo, kể lể với ông Châu rằng ông bị một vài "anh em" ghét, bịa đặt báo cáo với Tổng Thống và ông Nhu, rằng ông âm mưu làm phản. !
Ông nhờ ông Châu thanh minh với Tổng Thống và ông Nhu giùm.
Ông Châu hoàn toàn tin tưởng ông Mậu, đã nặng lời phiền trách tôi (Đường) và số anh em trong này (Sài Gòn), về việc đối xử với ông Mậu. Đồng thời ông xin trình diện Tổng Thống và ông Nhu để trình bày sự việc, nhưng cả hai nơi đều từ chối không tiếp ông. Ông Châu liền viết một bức thư dài, kể lể tình tiết quãng đời ông và ông Mậu theo phò Tổng Thống từ những ngày còn hàn vi. Cuối cùng ông Châu xin Tổng Thống: "Kính thưa Tổng Thống, suốt 17 năm anh Mậu đã cùng với con, chúng con theo phò và đã hết lòng phục vụ Tổng Thống qua bao nhiêu giai đoạn khó khăn nguy hiểm. Nay không lẽ ngày một ngày hai anh Mậu lại quay lại phản Tổng Thống. Kính xin Tổng Thống bình tĩnh xét lại cho, kẻo oan cho một cán bộ đã góp nhiều công lao trong công cuộc xây dựng chế độ". Sau khi đọc thư của ông Châu, Tổng Thống phê: "Hủy bỏ hành quân".
Chuyện xin Tổng Thống Diệm cho ông Mậu trên đây, cũng được Trung Tá Châu kể lại với Thiếu Tá Nguyễn Hữu Duệ, Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn Liên Binh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ (cấp bậc sau cùng là Đại Tá, hiện ở San Diego, California), dịp hai ông gặp nhau trong bữa cơm Trung Tá Nguyễn Ngọc Khôi Tư Lệnh Lữ Đoàn khoản đãi ông Châu sau ngày đảo chánh 1.11.1963.
2. Vào những tháng cuối trước ngày 1.11.1963, giữa anh em Tổng Thống Diệm đã không có được sự đồng nhất ý kiến trong kế hoạch đối phó với tình hình lúc ấy. Nhưng theo tôi biết không có chuyện ông Ngô Đình Cẩn nhắn qua Đại Tá Lê Quang Tung bảo ông Đính làm đảo chánh, như ông Đính đã trả lời phỏng vấn của Đài Truyền Hình Little Sài Gòn TV tại Orange County, California tối ngày 1. 12. 2001.
3. Cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, được tổ chức chặt chẽ và tinh vi hơn cuộc binh biến ngày 11.11.1960 nhiều. Nhưng về tình hình hoạt động và khả năng của lực lượng đảo chánh trong khu vực Sài Gòn cũng như tại Bộ Tổng Tham Mưu, từ lúc tiếng súng đầu tiên nổ cho đến chiều ngày 2 tháng 11 thì không hơn gì. Cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ, một người bạn thân tôi quen biết từ lâu, chúng tôi đã cùng làm việc với nhau tại Bộ Tham Mưu Tổng Cục Chính Tranh Chính Trị từ năm 1965 đến 1973. Ngày 1.11.1963, cựu Đại Tá Duệ là Thiếu Tá Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ kiêm Tham Mưu Trưởng. Ông Duệ kể lại về tình hình tại Sài Gòn suốt thời gian xảy ra đảo chánh như sau:
Lực lượng đảo chánh chỉ có Sư Đoàn 5 là chủ lực nhưng vẫn ở ngoài Sài Gòn, và theo tôi nghĩ, dù lực lượng này có vào được Sài Gòn cũng khó mà tấn công được Dinh Gia Long.
Khi tiếng súng đảo chánh bắt đầu nổ, binh sĩ Lữ Đoàn quan sát thấy hai Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến dàn quân trên Đường Hồng Thập Tự và Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tư thế chuẩn bị tấn công vào Thành Cộng Hòa, họ liền bắn súng chỉ thiên cảnh cáo hai Đại Đội này. Lúc đó Dinh Gia Long không bị lực lượng nào tấn công cả. Và khi theo dõi hành động của hai Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến trên đây, Trung Úy Bảo, Trưởng Phòng 5 Lữ Đoàn, nhận ra mấy sĩ quan của hai đơn vị này là Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ Bị Đà Lạt thời gian ông là huấn luyện viên tại đó. Ông xin tôi (Thiếu Tá Duệ) cho ông ra gặp để thuyết phục, đưa họ vào gặp tôi. Chấp thuận đề nghị của Trung Úy Bảo, tôi cho một Chi Đội Thiết Giáp và hai Trung Đội bộ binh bảo vệ đưa ông ra gặp cấp chỉ huy của hai đơn vị trên.
Trung Úy Bảo đã thành công. Ông đưa hai vị Đại Đội Trưởng (Trung Úy) của hai Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến nói trên vào gặp tôi. Họ cho tôi biết hai đơn vị của họ đang hành quân ở Tây Ninh thì được lệnh về bảo vệ Tổng Thống vì lính Lữ Đoàn làm phản.
Sau khi cho họ biết không hề có chuyện đó và cho họ coi khả năng tác chiến của Lữ Đoàn: Các súng đại liên bố trí trên các tầng lầu của Thành Cộng Hòa, lực lượng chiến xa và thiết giáp. . . tôi hỏi họ: Với vũ khí và chiến cụ như thế, nếu chúng tôi tấn công các anh, thì sự thiệt hại của hai Đại Đội của các anh sẽ ra sao? Và tôi đã gọi giây nói báo cáo sự việc với Tổng Thống trước mặt họ.
Thoạt đầu tôi định cho họ vào Thành để cùng anh em Lữ Đoàn bảo vệ Tổng Thống, nhưng nghĩ lại, sợ khó chỉ huy vì Thủy Quân Lục Chiến có hệ thống chỉ huy riêng, nên tôi đã bỏ ý định ấy, và đề nghị họ tập trung anh em vào sân vận động Hoa Lư đợi lệnh. Lúc đó có một Chuẩn Úy Trung Đội Trưởng, con của một Hạ Sĩ Quan trong Ban Quân Nhạc của Lữ Đoàn xin cho Trung Đội của anh được ở lại để cùng binh sĩ Lữ Đoàn bảo vệ Tổng Thống, nhưng tôi cũng đã phải từ chối. Tất cả Quân Nhân của hai đơn vị này đã thi hành lệnh tập trung một cách nghiêm chỉnh, không có cử chỉ gì tỏ ra phản kháng cả.
Đến nửa buổi chiều, pháo binh của quân đảo chánh từ xa lộ bắn vào nhiều, tôi sợ có thiệt hại cho binh sĩ hai Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến nói trên, nên tôi ra lệnh cho họ trở về doanh trại.
Sau khi giải quyết vụ hai Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến, tôi gọi điện thoại lên Bộ Tổng Tham Mưu gặp anh rể tôi là Đại Úy Đoàn Bá Trí, làm việc tại Phòng 4 và người em họ, Thiếu Úy Bùi Xuân Đáng, Sĩ Quan Quân Cảnh Bộ Tổng Tham Mưu, hai người này cho tôi biết, lực lượng đảo chánh chẳng có đơn vị nào cả chỉ có khoảng hai Đại Đội tân binh quân dịch của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung, và một số Thiết Vận Xa, nhưng không nhiều và có vẻ chưa sẵn sàng, có mấy chiếc còn đang đổ xăng bằng thùng xăng nhỏ 20 lít.
Tôi trình lên Tổng Thống tình hình trên đây tại Bộ Tổng Tham Mưu và đề nghị: Xin Tổng Thống dời Dinh Gia Long qua Dinh Độc Lập vì bên đó dễ phòng thủ hơn, và cho phép tôi bỏ Thánh Cộng Hòa, tập trung một số lực lượng lên tấn công thẳng vào Bộ Tổng Tham Mưu mời các Tướng lãnh về trình diện Tổng Thống.
Tổng Thống không chấp thuận và chỉ thị cho tôi qua Sĩ Quan Tùy Viên, Đại Úy Đỗ Thọ:
"Bảo Duệ đừng nóng, Lữ Đoàn chỉ cần bảo vệ Thành Cộng Hòa và Dinh Gia Long, cố gắng tránh đừng để anh em binh sĩ phải đổ máu. Đánh vào Bộ Tổng Tham Mưu sẽ đổ vỡ sự thống nhất Quân Đội, mất tiềm năng chống cộng. Để Tổng Thống thu xếp với các Tướng lãnh".
Chừng một giờ sau, tôi xin phép Tổng Thống cho chiếm lại Đài Phát Thanh, được Tổng Thống chấp thuận, tôi cử Đại Đội 2 do Đại Úy Xuân chỉ huy và một Chi Đội thiết giáp ra chiếm lại Đài Phát Thanh, họ đã chiếm được tầng dưới Đài một cách dễ dàng. Trong khi tôi còn đang phân vân, chưa quyết định cho tấn công lên tầng trên vì sợ hư máy móc, thì Trung Tá Nguyễn Văn Thiện, Chỉ Huy Trưởng Thiết Giáp Binh đem theo một số xe tăng đến Đài, với tư cách Chỉ Huy Trưởng Binh Chủng, ông ra lệnh cho Chi Đội thiết giáp của Lữ Đoàn ngưng cuộc tấn công, vì vậy mà Đại Úy Xuân không hoàn thành được nhiệm vụ.
Ngoài ra, được biết Tiểu Đoàn Biệt Động quân của Đại Úy Sơn Thương, bạn tôi, đang đóng ở Căn Cứ Chuyển Vận Sài Gòn đợi tàu ra Nha Trang để tái huấn luyện, tôi liên lạc với Đại Úy Thương để sử dụng đơn vị này, nhưng ông vắng mặt. Tôi liền nhờ em ruột tôi, Chuẩn Úy Nguyễn Sỹ Anh Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn thuyết phục các Sĩ Quan Đại Đội Trưởng của Tiểu Đoàn, họ rất mau mắn và hăng hái tham gia lực lượng chống đảo chánh. Được em tôi cho biết về tinh thần của họ, tôi đã cho xe chở họ về đóng tại Nha Bưu Điện trước Nhà Thờ Đức Bà để làm lực lượng trừ bị.
Tình hình trong Thành Phố Sài Gòn cho đến gần sáng ngày 2. 11, ngoài mấy Đại Đội Thủy Quân Lục Chiến di chuyển quanh khu vực, chưa có đơn vị nào của Sư Đoàn 5 Bộ Binh xâm nhập, Dinh Gia Long và Thành Cộng Hòa chưa bị tấn công. Nên theo tôi, dù Tổng Thống không dời qua Dinh Độc Lập theo đề nghị của tôi, nhưng đừng dời khỏi Dinh Gia Long thì, với lực lượng của Lữ Đoàn được tăng cường Tiểu Đoàn Biệt Động Quân của Đại Úy Thương, việc bảo vệ Tổng Thống sẽ rất dễ dàng trong một thời gian khá lâu, và chắc chắn phe đảo chánh sẽ thất bại.
Một điểm quan trọng khác nữa cho thấy phe đảo chánh chắc chắn bị thất bại là:
Lực lượng bảo vệ các Tướng đảo chánh tại Bộ Tổng Tham Mưu cũng như lực lượng tấn công bị lừa là về bảo vệ Tổng Thống vì Lữ Đoàn làm phản. Sĩ Quan cũng như Binh Sĩ không có gì oán trách Tổng Thống, nên nếu biết đây là cuộc đảo chánh Tổng Thống thì họ sẽ không liều mạng tấn công.
Trong khi đó, binh sĩ của Lữ Đoàn đều là những người rất trung thành với Tổng Thống họ là những Quân Nhân ưu tú và giỏi chiến đấu, được lựa chọn về để bảo vệ Tổng Thống.
Vì thế, điều tôi rất lấy làm tiếc là: Nếu Tổng Thống không sợ anh em binh sĩ phải đổ máu, không sợ đánh vào Bộ Tổng Tham Mưu trong buổi chiều ngày 1. 11 thì, với tương quan lực lượng giữa hai bên đảo chánh và chống đảo chánh chênh lệch rõ rệt như vậy, tôi sẽ thắng đám đảo chánh một cách dễ dàng.
Nói như vậy không phải tôi chủ quan, vì hồi năm 1981, được cựu Nghị Sĩ Trương Tiến Đạt mời tôi tới nhà ông tại Oakland để thảo luận về việc thành lập một Mặt Trận Giải Phóng Việt Nam. Gặp Tướng Đôn tại đây, tôi hỏi thẳng ông Đôn: Nếu chiều ngày 1.11.1963 tôi đem quân Lữ Đoàn lên tấn công Bộ Tổng Tham Mưu thì sao? Ông Đôn thành thật nhìn nhận: "Thì chắc chắn là chúng tôi thua thôi".
Ngoài ra, Tướng Nguyễn Văn Quan, nguyên là chỉ huy của Tướng Dương Văn Minh và là cố vấn của ông này trong cuộc đảo chánh, được ông Minh giao việc liên lạc móc nối với các sĩ quan cấp nhỏ, nhưng hầu hết là có quân. Ông Quan rất thân thiết với cựu Đại Tá Duệ. Một thời gian sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, trong một lần đến thăm Tướng Quan khi nhắc đến cuộc đảo chánh, ông Duệ hỏi ông:
- Thiếu Tướng thấy có đơn vị lớn nào theo đảo chánh không?
- Chả có đơn vị lớn nào cả. Không Quân, Hải Quân chỉ liên lạc mấy anh nhỏ. Ở các Sư Đoàn, ngoài Sư Đoàn 5 thuộc quyền Đính là theo và Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Lúc nghe tin có Tiểu Đoàn Biệt Động Quân đóng ở Bưu Điện để bảo vệ Tổng Thống và Sư Đoàn 5 chưa đưa được đơn vị nào vào gần để tấn công thì nhiều người sợ ra mặt, và moa nghĩ nếu như lúc ấy để họ tự do rút lui thì họ chạy cả.
Riêng về lực lượng Thiết Vận Xa bảo vệ Bộ Tổng Tham Mưu hôm ấy, tôi được cựu Trung Tá Hoàng Khảm, hiện ở Thành Phố Midway City, Orange, California, kể lại như sau:
Khi ấy tôi là Trung Úy Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn 4/4 Thiết Vận Xa của Trung Đoàn 4 Thiết Giáp thuộc Quân Đoàn I. Chi Đoàn có 3 Chi Đội, mỗi Chi Đội có 5 Thiết Vận Xa, được tăng phái cho Sư Đoàn 7 ở Mỹ Tho. Hết thời hạn tăng phái, Chi Đoàn đang tập trung tại Bộ Chỉ Huy ở Gò Vấp đợi ngày về lại miền Trung. Sáng 1. 11 tôi được Bộ Tổng Tham Mưu gọi về họp. Khi vào trình diện tại phòng họp, Tướng Dương Văn Minh ra lệnh cho tôi dùng điện thoại tại chỗ gọi về ra lệnh cho Chi Đoàn lên trình diện và đặt thuộc quyền sử dụng của Bộ Tổng Tham Mưu để đi hành quân. Khi Chi Đoàn đến trình diện, được sĩ quan trong nhóm đảo chánh điều động bố trí quanh Bộ Tổng Tham Mưu, còn tôi thì bị giữ luôn trong Bộ Tổng Tham Mưu suốt thời gian xảy ra đảo chánh. Tôi cũng như tất cả sĩ quan, binh sĩ trong Chi Đoàn không được hay biết gì cho đến khi tiếng súng đảo chánh nổ.
Tôi cũng được cựu Trung Tá Trần Hữu Tác, ngày 1.11.1963 là Đại Úy Liên Đoàn Phó Liên Đoàn 77/Lực Lượng Đặc Biệt, hiện ở Thành Phố Tustin, Orange County, cho biết:
Mặc dù cả 4 Đại Đội của Liên Đoàn bị Bộ Tổng Tham Mưu xé ra từng Đại Đội đưa đi hành quân tại vùng Biên Hòa, nhưng số Quân Nhân còn lại tại Bộ Tư Lệnh gần 100 người, anh em xin vượt bức tường ngăn, qua tấn công thẳng vào tòa nhà chánh Bộ Tổng Tham Mưu. Lời đề nghị của họ bị Trung Tá Nguyễn Hộ phụ tá Đại Tá Tung cản trở và Thiếu Tá Phạm Văn Phú (Tướng Phú sau này) Liên Đoàn Trưởng cũng tỏ vẻ ngần ngại, nên anh em không dám hành động. Nhưng nếu Lữ Đoàn lên tấn công Bộ Tổng Tham Mưu thì chắc chắn số anh em chúng tôi sẽ tiếp ứng theo kế hoạch đã được chuẩn bị. Vì trong thời gian diễn biến cuộc đảo chánh chúng tôi đã liên lạc với Lữ Đoàn nhiều lần.

PN99
03-12-2009, 19:44
Chương 3.4



LIÊN LẠC VỚI BẮC VIỆT MƯU TÍNH TRUNG LẬP HÓA MIỀN NAM?


Trên đây là lý do làm cuộc đảo chánh được các Tướng lãnh công bố, sau khi tổ chức thành công cuộc đảo chánh lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Xin được nhắc lại, ngày 11.11.1963 Tướng Tôn Thất Đính gọi tôi vào trình diện ông tại Tổng Bộ An Ninh. Tại văn phòng Tổng Trưởng, ông đã chỉ cho tôi một đống giấy tờ để đầy dưới sàn nhà trước bàn giấy của ông, và nói đó là tài liệu các ông (Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu) liên lạc với Bắc Việt. Vì các ông mưu tính Trung Lập hóa miền Nam, nên anh em Tướng lãnh phải tổ chức đảo chánh các ông.
Một số người không hiểu biết gì hơn ngoài lời buộc tội của các Tướng đảo chánh, cũng đã vội vã kết tội việc liên lạc với Bắc Việt của ông Ngô Đình Nhu là hành động "đâm sau lưng chiến sĩ".
Và cho đến ngày nay, nhiều người vẫn còn thắc mắc, tin nói ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã gặp đại diện Bắc Việt có thật hay không?
Những người hiểu biết ít nhiều về tình hình Việt Nam trong những năm 1962-1963 đều thắc mắc, không hiểu tại sao các Tướng đảo chánh lại có thể đưa ra một lời buộc tội Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu một cách thiếu suy nghĩ như vậy. Vì chuyện ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu gặp một số cán bộ cao cấp của Hà Nội, không những ông đã nói với các Tướng lãnh trong một buổi họp hàng tuần tại Bộ Tổng Tham Mưu, (theo Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp, Sĩ Quan Tùy Viên của ông Cố Vấn Nhu) ông còn công khai nói tại các khóa huấn luyện Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược. Xin trích lược một vào đoạn sau đây.
Trong lễ bế giảng khóa XII/3 Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược tại suối Lồ Ô ngày 22. 6. 1963, Ban Phụ Trách khóa học đã yêu cầu ông Ngô Đình Nhu: Xin ông Cố Vấn giúp cho anh em khóa sinh có đủ lý lẽ, lập luận, hầu có thể giải thích cho dân chúng về một dư luận nói rằng: "Việt Nam chỉ là con chốt trên bàn cờ quốc tế. Thế giới tự do và Cộng Sản tuy chống đối nhau về ý thức hệ, nhưng họ có thể đi đến hòa giải với nhau khi đã tạo được thế quân bình. Do đó có người cho rằng, cố gắng của Việt Nam, cộng với sự trợ giúp của các bạn Mỹ, chỉ là để tăng thêm áp lực trên khối Cộng Sản. Nhưng khi đã tạo được thế quân bình, họ có thể hòa giải với nhau. Vì thế, ngày chiến thắng và con đường thoát ly của chúng ta còn xa".
Họ đã được ông Ngô Đình Nhu trả lời:
"Câu hỏi được anh em đặt ra cũng chính là câu hỏi mà cán bộ cao cấp Cộng Sản trong mật khu đã đặt ra với tôi dưới một hình thức khác. Họ hỏi tôi: Ngày mai của Việt Nam chúng ta sẽ ra thế nào?"
Chúng ta là một nước bé nhỏ đứng giữa hai khối, chúng ta là thụ động. Nếu bên thế giới tự do tăng cường viện trợ cho ta, thì thế giới Cộng Sản cũng sẽ tăng cường viện trợ cho phía họ, hai bên cứ tăng cường như vậy sẽ đưa cái mức chiến tranh càng ngày càng lên cao, và số phận chúng ta rồi mai đây sẽ ra sao?
Quốc Sách Ấp Chiến Lược được hình thành và đang được áp dụng biến một số lực lượng của chúng ta qua thế du kích. Chúng ta cũng đang học tập để soát xét lại vấn đề ngoại viện, chính là nhằm để hạ cái mức độ chiến tranh xuống.
Tôi xin nhắc lại: Cả chính sách, cả đường lối của chúng ta là đưa ra một "binh thư binh pháp mới". Binh thư binh pháp đó là mình buộc địch phải đánh trong điều kiện chiến tranh của mình. Tức là không để cho cường độ chiến tranh tăng lên vì ngoại viện, theo mức độ viện trợ từ bên ngoài.
Về vấn đề Trung Lập, trong thông điệp đọc trước Quốc Hội ngày 1. 10. 1962, Tổng Thống Ngô Đình Diệm khẳng định:
"Chúng ta đã cương quyết bác bỏ mọi đề nghị trung lập hóa Việt Nam do Cộng Sản trực tiếp hay gián tiếp chủ mưu".
Với ông Ngô Đình Nhu, cuối năm đó, đúng vào thời kỳ vừa xảy ra các biến cố tại Algeria, Cuba, Pháp và đặc biệt là vụ Ấn Độ bị Trung cộng tấn công, khóa VI Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược được khai giảng. Đến dự lễ khai giảng ông Ngô Đình Nhu, trong bài hiểu thị, sau khi phân tách những yếu tố (Cảm Tình-Triết Lý-Chính Trị) đã được một số Quốc Gia dựa vào đó mà thực hiện Trung Lập Chế cho đất nước họ. Ông đã đặc biệt nói về chế độ Trung Lập như sau:
"Ngày nay, biến cố ở Ấn giúp chúng ta càng thấy rõ ràng hơn nữa là, đối với Cộng Sản không thể có Trung Lập được tại sao?
Tại vì người Cộng Sản tin tưởng rằng, họ đã đạt được chân lý tuyệt đối về chính trị, mà chỉ có họ thôi, đã đạt được chân lý đó và họ có nhiệm vụ phải phát huy chân lý đó ra bằng mọi cách, nhất là bằng bạo lực. Tôi muốn nói qua về chế độ trung lập nhân dịp Trung cộng xâm lược Ấn Độ để cho anh em nhận định lại về thuyết trung lập và việc thực hành trung lập. Đó là điểm chúng ta cần học tập trong khóa VI này để cùng hiểu rằng tại sao chúng ta không theo thuyết trung lập. Không phải vì chúng ta ngoan cố, mà vì xét theo 3 phương diện đó (Cảm Tình-Triết Lý-Chính Trị) và xét về thực tại của đời sống trong thế giới hiện nay, không có thể gì mà trung lập được, nhất là đối với Cộng Sản, không có thể trung lập, vì chẳng những họ không trung lập mà chỉ chủ trương trung lập để làm suy yếu các quốc gia khác để dễ bề thôn tính".
Và trong lễ bế giảng khóa XII/3 Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược vừa nói trên, ngày 22. 6. 1963 ông đã nói về việc gặp một số cán bộ cao cấp Việt Cộng và nói thêm về thuyết trung lập như sau:
"Một số cán bộ cao cấp hiện còn đang ở trong hàng ngũ Việt Cộng, đang sống trong mật khu, khi gặp tôi họ đã hỏi: "Ngày mai của Việt Nam chúng ta sẽ ra thế nào?" Chúng tôi đã trả lời họ rằng, chúng ta sẽ không theo khối Cộng Sản, cũng không theo khối tư bản.
Họ nhìn nhận Quốc Sách Ấp Chiến Lược là một chính sách đúng. Họ phục đường lồi của Chính Sách Ấp Chiến Lược là chủ trương xây dựng từ hạ tầng rồi lần lần chuyển biến lên thượng tầng. Nhưng rồi họ lại thắc mắc:
Như vậy thì triển vọng ngày mai của chúng ta, ý nghĩa của chúng ta trong lãnh vực quốc tế sẽ thế nào? Và nếu họ chuyển ra ngoài này với chúng ta rồi thì sẽ cùng nhau đi về đâu?
Vì những người đã gặp tôi đều là những cán bộ cao cấp, người thì đã có nhiều kinh nghiệm chiến đấu tại Điện Biên Phủ, người thì đã từng đi học ở Prague, ở Moscow, ở một số các nước Cộng Sản khác. Họ là những người có nhiều kinh nghiệm và hiểu biết về chế độ Cộng Sản, nên tôi hỏi họ: Anh em nghĩ thế nào về trung lập chế? Họ trả lời:
"Trung lập chế chúng tôi đã nghĩ tất (cả), chúng tôi thấy đó chỉ là chiêu bài Cộng Sản đưa ra để nuốt sống các nước nhẹ dạ, các nước nhu nhược".
Còn về câu hỏi họ hỏi "Ngày mai của Việt Nam chúng ta sẽ ra thế nào?" Câu hỏi này cho ta thấy mối ưu tư của họ, và cũng chính là mối ưu tư của chúng ta đối với ngày mai của nước Việt Nam. Tôi đã nói với họ:
Ngày mai của nước Việt Nam là do tất cả thanh niên trong cả nước tự đứng lên làm, chứ không phải do những lực lượng hiện nay. Các lực lượng chúng ta thấy bây giờ, dù ở bên Cộng Sản hay ở bên chống cộng, đều đã đi về già, là những lực lượng lạc hậu, chỉ có sức mạnh về hình thức thôi, chứ nội dung không có gì. Cho nên ngày mai của nước Việt Nam sẽ do các thế hệ thanh niên và những người có tâm hồn thanh niên tạo dựng".
Chính từ ý niệm này mà ông Ngô Đình Nhu đã thành lập Đoàn Thanh Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa.
Hơn nữa, tiến trình đi đến những cuộc tiếp xúc trực tiếp giữa ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và một số cán bộ cao cấp của Cộng Sản như vừa được trích lược trên đây là do yêu cầu của Hà Nội, không phải do Sài Gòn đề xuất.
Tôi được Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể lại, hồi đầu thập niên 90, trong một dịp đến Bỉ ngài đã đến thăm một vị công cán ủy viên của Nhà Vua (xin được tạm dấu tên vị này) một người trước kia rất thân thiết với Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi ông lưu trú tại nước này, trong thời kỳ bôn ba hải ngoại. Sau khi mời khách ngồi, vị công cán ủy viên hỏi:
- Ngài có biết trước đây ai đã ngồi trên ghế ấy không?
- Thưa, chắc là Tổng Thống Diệm.
- Không phải. Đó là ghế mà cán bộ Cộng Sản Hà Nội đã ngồi để bàn tính chuyện liên lạc với Nam Việt Nam đấy.
Rõ ràng hơn nữa, vào hạ tuần tháng 9. 1963, ký giả Joseph Alsop viết một bài đăng trên hai tờ báo New York Herald Tribune tại Mỹ và Le Figaro tại Pháp, tường thuật lại hai cuộc diện kiến giữa ông với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu.
Về cuộc diện kiến Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ký giả Alsop ghi lại:
". . . Tổng Thống Diệm tiết lộ cho tôi biết, ông Jacques de Buzon, Tổng Lãnh Sự Pháp tại Hà Nội đã xin phép Tổng Thống được vào Sài Gòn để thay đổi không khí đôi chút. Tôi tự hỏi, ông Diệm nói với tôi, liệu ông ta có thể đến Sài Gòn được không, một chuyến đi mà những người Cộng Sản luôn chống đối. Nhưng một điều rất lạ là, lần này họ đã để cho ông ta đi. Khi Đại Sứ Lalouette dẫn ông ta đến gặp tôi, tôi thấy ông này đã không nói với tôi chuyện gì quan trọng, ngoại trừ chuyện ông Hồ chí Minh hiện nay nói về tôi bằng một giọng điệu khác hẳn trước kia. Ông ta không còn gọi tôi là tên phản động, là con rối trong tay người Mỹ, ông de Buzon quả quyết, ngày nay ông ta gọi tôi là ‘ông Diệm tử tế, ông Diệm là người Việt Nam tốt, chung quy là một người yêu nước’. Phải nói rằng tôi hết sức ngạc nhiên khi được biết điều này".
Tiếp theo là cuộc diện kiến ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu được ký giả Alsop kể lại:
"Sau lời tuyên bố của Tướng de Gaulle (đề nghị Trung lập hóa Đông Dương), Đại Sứ Pháp đã đến thăm xã giao Tổng Thống Diệm, sau đó ông đã gặp ông Cố Vấn Nhu lâu hơn, yêu cầu ông đừng bỏ qua thời cơ do tuyên bố của Tướng de Gaulle đưa lại. . . Sau đó, do yêu cầu của Đại Sứ Lalouette, Trưởng đoàn Ba Lan trong Ủy Ban Kiểm Soát Đình Chiến, Tiến Sĩ Maneli, đã đến gặp ông Cố Vấn của Tổng Thống Diệm. Ông này không chỉ đưa ra những vấn đề và những lý lẽ như Đại Sứ Lalouette, mà còn chuyển đạt một thông điệp do đích thân thủ tướng Bắc Việt Nam, ông Phạm văn Đồng gửi".
Ông Nhu cho biết: Thông điệp yêu cầu tôi mở thương nghị trên căn bản đề nghị ngưng bắn của ông Hồ chí Minh (sự viện trợ từ bên ngoài phải được chấm dứt). Đó là một đề nghị hấp dẫn, nhưng tôi đành phải trả lời ông bạn Ba Lan rằng, tôi không thể mở thương nghị sau lưng người Mỹ được. Điều đó không thể đặt thành vấn đề.
Dẫu sao, ông Nhu tiếp, chúng tôi cũng đã có được một cuộc đối thoại hữu ích. Với tư cách người Cộng Sản, ông ta nhìn nhận tôi là một lý thuyết gia thực sự về du kích chiến trong thế giới không Cộng Sản. Và cho tôi biết, ông ta chờ đợi ở tôi một câu trả lời khác với câu tôi đã nói với ông ta. Ngay khi có được câu trả lời đó, ông ta sẽ gặp lại tôi và lấy máy bay đi Hà Nội ngay.
Sau đó ký giả Alsop viết:
Việc tiết lộ những sự giao dịch này đưa đến kết quả là cả hai phía cùng sẽ cực lực cải chính. Nhưng tôi đã kể lại một cách rất chính xác những điều đã được hai người trong cuộc: Tổng Thống Diệm và em ông, tự thuật. (Les Relations Americano-Vietnamiennes. Tome I. Trang 130)
Sự kiện cán bộ Cộng Sản gặp vị công cán ủy viên Bỉ, chính là đầu mối đưa đến những sự kiện vừa được lược thuật trên đây? Những sự kiện mà một số trong đó, ông Ngô Đình Nhu đã công khai nói với Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược và đã cho các Tướng lãnh biết. Vậy tại sao họ lại cố tình như không biết để đưa ra lời kết tội Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu mưu tính trung lập hóa miền Nam? Để làm gì?
Thắc mắc trên đây được tác giả cuốn The Year Of The Hare, in tạp dịch: Năm Con Thỏ Rừng, (Năm con mèo 1963) ông Francis X. Winters, Giáo Sư môn Đạo Đức và Các vấn đề quốc tế tại Trường Đại Học Georgetow, Washington D. C, thành viên Viện Quốc Tế Về Chiến Lược Học, (Internatinal Institute for Strategic Studies) trụ sở tại Luân Đôn Anh Quốc, giải đáp:
Ngay khi được tin ông Diệm đã chịu đầu hàng các Tướng đảo chánh, Ngoại Trưởng Dean Rusk gửi ngay một điện văn dài nồng nhiệt chúc mừng ông Lodge và hối thúc ông này công bố việc ông Diệm đã tham gia bàn chuyện trung lập với ông Hồ chí Minh. (The Year Of The Hare. Trang 106)
Dĩ nhiên, ông Lodge làm sao nói được với dân Việt Nam, nên ông đã chuyển lệnh "cấp trên" cho nhóm Tướng đảo chánh. Nhận được "lệnh trên" các ông Tướng này lập tức thi hành, vội vàng tuyên bố lý do làm đảo chánh là vì:
"Các ông Tổng Thống Diệm và ông Nhu liên lạc với Bắc Việt mưu toan trung lập hóa miền Nam".
Mặc dù họ đã biết rõ lập trường đối với vấn đề trung lập của anh em ông Diệm từng được Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu khẳng định như vừa được trích thuật ở trên.
Điều mỉa mai là, sau khi nhóm đảo chánh nắm quyền, họ tưởng rằng, họ đã thiết lập được một chế độ vững chắc và có tính cách đại diện cho một miền Nam hơn, họ có thể trở thành một đối lực với mặt trận giải phóng và chính phủ Hà Nội. Và khi ấy họ sẽ nhờ vào sự hợp tác tích cực của nước Pháp để thực hiện việc trung lập hóa Việt Nam. Khi kế hoạch này tiết lộ đến tai người Mỹ và Hà Nội thì phản ứng của hai phía đều là: Không thỏa hiệp, không trung lập, chiến đấu đến cùng. Tại Hà Nội, thành phần chủ chiến, vì đã nắm được con bài tẩy, họ đều ngã về giải pháp tiếp tục cuộc chiến không do dự, không hạn chế, không thỏa hiệp. . . Họ nói rõ:
"Tính cách đại diện của chế độ miền Nam hiện nay còn thua thời ông Diệm, vì không có người nào trong chính phủ có được một chút kính trọng nào của dân chúng" (The War of the Vanquished. Trang 163)
Việc ông Rusk hối thúc ông Lodge công khai tiết lộ việc liên lạc với Bắc Việt của Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu kèm theo chiến dịch "bôi bẩn" hai ông bắt nguồn từ những sai lầm vô cùng nghiêm trọng ông Rusk và nhóm của ông đã phạm phải.
Là những người làm ra chính sách Việt Nam của chính phủ Kennedy mà họ không có chút hiểu biết nào về Dân Tộc và Đất Nước Việt Nam. Họ không tìm hiểu lịch sử, văn hóa, chính trị, tánh tình và thói quen của người dân và các nhà lãnh đạo bản xứ. Quá ỷ vào sức mạnh cơ giới và kỹ thuật tân kỳ, không đếm xỉa gì đến sức mạnh của tinh thần dân tộc, động cơ thúc đẩy người dân Việt Nam sẵn sàng hy sinh chống lại mọi hình thức ngoại xâm. Và vì chỉ biết nhìn mọi người theo lối nhìn của mình, nên ông Rusk và nhóm của ông đã nhìn Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu như là những trở ngại cần phải loại trừ, để chiến thắng Cộng Sản tại Việt Nam theo sự điều khiển của các ông.
Sau khi đã loại trừ được hai ông Diệm và Nhu, cần phải có lý do để chính đáng hóa hành động sát nhân, xóa mờ tinh thần "tự lực tự cường" mà hai ông đang cổ võ và xây dựng. Đồng thời khích động tinh thần quyết chiến của quân dân miền Nam, và nói lên quyết tâm của Hoa Kỳ hỗ trợ họ đánh Cộng Sản cho đến toàn thắng. Kế hoạch này tạo ra cho quân dân miền Nam tâm lý trông chờ và tất nhiên, sẽ rất vui mừng đón nhận sự tiếp sức của những người bạn đồng minh đến để giúp mình giải phóng đất nước khỏi ách Cộng Sản bạo tàn.
Điều đáng tiếc là, có lẽ khi ấy quân dân cả hai miền Nam Bắc Việt Nam không ai nghĩ ra rằng, khi người ta, khối tư bản cũng như khối Cộng Sản, đưa nhân lực, tiền của, súng đạn, phương tiện đến tiếp sức cho mình để "giải phóng đất nước", thì cũng chính là lúc mình bị người ta đẩy vào một cuộc "Chiến Tranh Của Những Kẻ Chiến Bại"(War of the Vanquished) vì quyền lợi và sự tranh giành ưu thế chiến lược của họ.
(War of the Vanquished. Tựa đề cuốn sách nói về bản chất cuộc chiến tranh Việt Nam ông Mieczyslaw Maneli, Trưởng Đoàn Ba Lan trong Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến tại Việt Nam theo Hiệp định Geneva).

PN99
03-12-2009, 19:46
Chương 3.5



HẬU ĐẢO CHÁNH


Sau khi trình cho ông Cẩn biết hung tin về Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu, tôi lên văn phòng cho anh em trong văn phòng giải tán. Tôi trở về nhà được chừng nửa giờ, khoảng 10-11 giờ ngày 2 tháng 11, thì hai ông Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự Mỹ đến gặp, Ông Lãnh Sự Helble cho tôi biết:
"Chúng tôi vừa nhận được lệnh Tòa Đại Sứ mời ông Cố Vấn tạm lánh qua bên Tòa Lãnh Sự chúng tôi. Chúng tôi sẽ bảo vệ ông Cố Vấn cũng như đã bảo vệ ông Thích Trí Quang".
Và ông Phó Lãnh Sự Mullen nói với tôi:
"Riêng phần ông và gia đình ông, xin mời qua tạm trú bên nhà tôi. Chúng tôi đã có sẵn chỗ cho mọi người trong gia đình ông".
Tôi nghĩ thầm, bây giờ đưa vợ con qua nhà ông Mullen chẳng biết họ có thể bảo vệ cho mình đến mức nào, mà lại có thể làm cho tình trạng thêm phức tạp. Tôi trả lời hai ông:
- Tôi thực sự cảm động trước hảo ý của Tòa Đại Sứ và của hai ông. Về việc Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ mới ông Cố Vấn tạm lánh qua Tòa Đại Sứ ở đây, tôi sẽ lên trình ông Cố Vấn ngay. Riêng phần tôi, tôi xin thay mặt cả gia đình hết lòng cám ơn lòng quảng đại của ông Mullen, đã sẵn sàng và muốn cho gia đình tôi qua tạm trú bên nhà ông trong những ngày này. Nhưng tôi xét, riêng phần tôi không có gì đáng lo ngại. Vì tôi là một Quân Nhân, được biệt phái đến làm việc với ông Cố Vấn, Bây giờ chuyển qua một chế độ khác, tôi lại trở về phục vụ một đơn vị Quân Đội thôi. Tôi nghĩ không có gì nguy hiểm cho chúng tôi lắm.
- Điều đó tùy ông. Nhưng tôi muốn nhắc lại rằng, khi nào ông cảm thấy nguy hiểm cho ông, bất cứ ngày hay đêm, ông hãy đem cả gia đình qua bên nhà tôi. Chúng tôi luôn sẵn sàng có đủ chỗ ăn ở cho gia đình ông.
- Ông Mullen à! Tôi hết xúc động trước lòng tốt của ông đối với chúng tôi. Tôi sẽ sẵn sàng làm phiền ông khi cảm thấy cần thiết. Cám ơn ông rất nhiều.
Về vấn đề tỵ nạn của ông Ngô Đình Cẩn, bà Marguerite Higgins kể rằng: Đêm thứ bảy, 2. 11 theo lời yêu cầu của bà Ngô Đình Nhu, bà Higgins điện thoại hỏi ông Roger Hilsman, Phụ Tá Ngoại Trưởng Rusk, về trường hợp ông Ngô Đình Cẩn, ông Hilsman trả lời:
" Ông ta có thể được tỵ nạn, nếu ông ta muốn". (VNON. Trang 225)
Sau khi hai ông Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự rời nhà tôi, tôi lên trình ông Cẩn lời mời của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, ông bảo tôi:
"Chú qua nói với họ, tôi còn bà mẹ già, tôi không thể xa mẹ tôi được. Nếu họ nhận cả bà thì tôi qua, bằng không thì thôi".
Từ nhà ông Cẩn ra, tôi đến thẳng Tòa Lãnh Sự Mỹ, chuyển lời yêu cầu của ông Cẩn đến hai ông Lãnh Sự và Phó Lãnh Sự. Ông Lãnh Sự trả lời:
- Chúng tôi chỉ nhận được lệnh mời ông Cố Vấn. Bây giờ ông Cố Vấn muốn chúng tôi nhận cả bà mẹ thì phải chờ chúng tôi xin lệnh Tòa Đại Sứ.
- Vâng, xin ông cứ làm tất cả những gì ông cần phải làm, và xin cho tôi biết kết quả càng sớm càng tốt.
Tôi trở lại trình cho ông Cẩn biết ý kiến của ông Lãnh Sự. Trở ra, tôi lái se đi quanh mấy đường chính trong Thành Phố, tình hình vẫn yên tĩnh không có gì náo động. Suốt buổi chiều hôm ấy tôi không dám rời nhà, có ý đợi Tòa Lãnh Sự Mỹ cho biết kết quả về lời yêu cầu của ông Cẩn. Bắt đầu khoảng hơn 3 giờ chiều, một chiến xa lâu lâu lại chạy ngang qua nhà tôi. Thấy có vẻ bất thường, tôi lái xe lên nhà ông Cẩn xem có gì xảy ra không. Gần đến nơi thấy một chiến xa đứng ngay góc ngã tư Nguyễn Trường Tộ (đường đi ngang qua nhà ông Cẩn) và Phan Chu Trinh (đường chạy dọc theo sông Bến Ngự). Chiếc thứ hai đứng trên mé Đường Phan Chu Trinh, chận lối cổng sau. Chiếc thứ ba đứng ngay ngả ba đầu Đường Nguyễn Trường Tộ, trước sân Nhà Thờ Phú Cam. Đến trước cổng chính, thấy có hai lính thiết giáp đứng gác. Tôi xuống xe xưng tên, cấp bậc và cho họ biết tôi làm việc trong văn phòng của ông Cẩn, tôi muốn vào xem ông có cần gì tôi không. Một trong hai anh lính đã nhã nhặn thưa lại: "Xin Đại Úy cảm phiền, chúng em được lệnh giữ không cho bất cứ ai từ ngoài vô, hoặc từ trong ra".
Sau này tôi mới biết chiếc chiến xa lâu lâu chạy ngang qua nhà tôi là do lệnh của Đại Úy Nguyễn Thế Thanh, một bạn học cùng khóa với tôi. Anh Thanh có cấp bậc sau cùng là Trung Tá, hiện ở Thành Phố Wesminster, Orange County. Anh Thanh là Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 4 Thiết Giáp, khi Chi Đội ¾ chiến xa của anh vừa được đưa qua để thành lập Chiến Đoàn 100 do Thiếu Tá Nguyễn Tuấn chỉ huy, được lệnh đến giữ an ninh khu nhà ông Cẩn, anh đã yêu cầu Chi Đội Trưởng lâu lâu cho một xe đảo qua nhà tôi, đề phòng có chuyện bất trắc xảy đến với gia đình tôi trong tình hình bất ổn lúc ấy.
Tuy là bạn cùng khóa, thân thiết và thường gặp nhau mỗi lần anh Thanh từ Quảng Trị về Huế thăm ông bà ngoại các con anh. Nhưng suốt những năm tôi làm việc cạnh ông Ngô Đình Cẩn, anh không hề nhờ vả bất cứ một điều lớn nhỏ gì. Vậy mà khi xảy ra những đổi thay đầy nguy hiểm, anh đã không e dè, ngang nhiên biểu lộ một tình cảm thật đặc biệt đối với tôi. Đến khi tôi được đưa vào Sài Gòn bỏ lại vợ con ở Đà Nẵng, anh đã lui tới giúp đỡ bất cứ chuyện gì vợ con tôi cần đến anh, cho đến khi vợ con tôi được an toàn vào Sài Gòn. Tôi vô cùng cảm phục tính cương trực và dũng khí nơi con người anh Thanh. Xin anh Thanh nhận ở đây lòng cảm mến và biết ơn vô hạn của tôi và gia đình tôi.
Bị ngăn cản không vào gặp ông Cẩn được, tôi trở về nhà ngồi đợi tin tức của Tòa Lãnh Sự Mỹ, chẳng thấy động tĩnh gì. Khoảng 7 giờ tối, Trung Tá Trần Văn Mô, cùng đi có Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu (Tướng Hiếu sau này) Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn I và Thiếu Tá Đào Quang Hiển Giám Đốc Nha Công An Cảnh Sát đến gặp tôi. Trung Tá Mô cho biết ông mới được bổ nhậm làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên kiêm Tỉnh Trưởng Huế. Đại Tá Hiếu và Thiếu Tá Hiển được cử giữ chức vụ cũ. Các ông muốn được đến ra mắt ông Cố Vấn. Tôi nghĩ thầm trong bụng, tình hình này mà các ông còn xin ra mắt ông Cố Vấn thì lạ thật.
Tôi đưa ba ông lên nhà ông Cẩn, đến cổng Trung Tá Mô cho hai anh lính thiết giáp biết ông là Tân Tỉnh Trưởng cùng với Đại Tá Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn và Thiếu Tá Giám Đốc Công An Cảnh Sát, cần vào gặp ông Cố Vấn, hai anh lính mở cổng cho chúng tôi vào. Vào bên trong tôi mời ba ông đứng chờ trước sân để tôi mời ông Cẩn. Vào nhà trong, biết ông Cẩn đã tạm lánh đi nơi khác không còn ở nhà. Tôi nói với Đại Úy Tôn Thất Độ ra cho họ biết là ông Cẩn vì bị xúc động mạnh nên quá mệt không thể tiếp các ông được, xin hẹn lại ngày hôm sau.
Trung Tá Mô nói với tôi: Nhờ anh trình lại ông Cố Vấn, chúng tôi nhận nhiệm vụ mới, nên xin ra mắt ông Cố Vấn mà rất tiếc không được gặp. Ngày mai chúng tôi sẽ sắp xếp thì giờ xin lên chào ông Cố Vấn.
Đêm hôm ấy (2.11) tình hình trong Thành Phố Huế vẫn hoàn toàn yên tĩnh không có gì xáo trộn.
Sáng hôm sau, Chủ Nhật 3 tháng 11, tôi đang xem lễ trong Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế, một anh Quân Cảnh đến kiếm, tới nói nhỏ:
- Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn muốn gặp Đại Úy.
Vì Thánh lễ đã gần xong, tôi nói với anh Quân Cảnh:
- Nhờ anh về trình lại với Thiếu Tướng chừng mười phút nữa, Thánh lễ kết thúc tôi sẽ lại trình diện Thiếu Tướng ngay.
Thánh lễ chấm dứt, từ Nhà Thờ tôi đến thẳng tư dinh Tướng Trí cách đó chừng 300 thuớc. Bước vào phòng khách tôi thấy Tướng Trí, và ngoài Trung Tá Mô, Đại Tá Hiếu, Thiếu Tá Hiển còn có Thiếu Tá Nguyễn Tuấn Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 100 Thiết Giáp đã ngồi sẵn đó.
Tướng Trí mời tôi ngồi ghế bên cạnh, ông nói:
- Nhờ anh trình xin ông Cố Vấn cho tôi gặp trong sáng nay, càng sớm càng tốt, vì tình hình này thế nào cũng có biện pháp khám xét nhà cửa của ông Cố Vấn. Anh trình ông nếu có tiền bạc, quý kim gì còn cất giữ ở trong nhà đưa tôi giữ cho.
- Vâng, tôi đến trình ông Cố Vấn bây giờ và sẽ trở lại với Thiếu Tướng ngay.
Tôi trở lại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế, vào trình ông Cẩn ý kiến và đề nghị của Tướng Trí, ông đồng ý và bảo tôi:
- Chú xuống trình xin Cha Bề Trên cho tôi tiếp ông Trí tại đây.
Tôi làm theo lời ông Cẩn rồi trở lại nhà Tướng Trí mời ông đi theo tôi.
Khi đứng dậy đi theo tôi, Tướng Trí nói với các vị Sĩ Quan hiện diện:
- Bây giờ moa đi với anh Minh, Tuấn đi theo moa còn các toa ngồi đây đợi moa.
Ra sân, Tướng Trí ra lệnh cho hai xe Quân Cảnh đi theo hộ tống. Thấy vậy, tôi đề nghị với Tướng Trí khi tới trước Nhà Dòng cho hai xe Quân Cảnh đứng ở ngoài đường, còn xe của ông và xe Thiếu Tá Tuấn tiếp tục đi vào trước thềm Nhà Dòng, Tướng Trí đã làm theo đề nghị của tôi.
Vào bên trong Nhà Dòng tôi mời Thiếu Tá Tuấn vào phòng khách bên cạnh cầu thang ngồi đợi. Tôi đưa Tướng Trí lên phòng ông Cẩn ở trên lầu, sau đó trở xuống ngồi nói chuyện với Thiếu Tá Tuấn.
- Khoảng 15 phút sau, ông Cẩn nhờ một Thầy Dòng ra gọi tôi. Lên phòng ông, tôi mở cửa bước vào, ông bảo tôi:
- Chú về nhà nói với Độ dẫn vào phòng tôi, lấy cái bao bố và cái va li dưới gầm giường đem lại đây cho tôi.
Khi tôi trở ra, Tướng Trí đi theo, xuống khỏi cầu thang ông gọi Thiếu Tá Tuấn từ trong phòng khách bảo đưa tôi về nhà ông Cẩn. Đến nhà ông Cẩn tôi nói Thiếu Tá Tuấn lái xe vào lối cổng sau và ngồi trên xe đợi tôi. Vào trong nhà, tôi cho Đại Úy Độ biết lệnh của ông Cẩn. Hai chúng tôi cùng vào phòng ông, lấy từ dưới gầm giường ra một cái bao bố lép xẹp, cột túm ở một góc dưới đáy, và một va li bằng vải nhựa đốm trắng xanh nhỏ li ti, cỡ chừng 0m50x0m80. Tôi xách hai tay hai cái đem bỏ lên xe. Thiếu Tá Tuấn lái xe về lại Nhà Dòng Chúa Cứu Thế, tôi đem lên cho ông Cẩn và trở lui xuống ngồi nói chuyện với ông Tuấn. Chừng 10 phút sau Tướng Trí từ trên lầu đi xuống, một tay xách cái bao bố, tay kia cái va li trao cho Thiếu Tá Tuấn ra khỏi cửa, Tướng Trí nói với tôi:
- Anh Minh à! Kể từ bây giờ coi như anh trở về lại Quân Đội. Anh cứ ở đây đợi lịnh của tôi.
- Thưa Thiếu Tướng, tôi đã có lệnh Tổng Thống cho về Trường Võ Bị Đà Lạt trước khi xảy ra đảo chánh. Bây giờ xin Thiếu Tướng cho tôi đáo nhận đơn vị được không?
- Hiện nay các Phi Trường còn đóng cửa chưa đi được đâu.
Sau khi gặp ông Cẩn, Tướng Trí đáp phi cơ trở lại ngay Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn tại Đà Nẵng. Buổi tối, Đại Úy Thiết Chánh Văn Phòng của Tướng Đôn, được ông Đôn để lại ở Huế, đưa đến cho tôi Công Điện Tướng Trí gọi tôi vào trình diện ông trong vòng 24 giờ. Công Điện ghi rõ "nếu không trình diện đúng thời hạn sẽ bị coi như đào ngũ".
Sáng hôm sau, 4 tháng 11, sau khi dự Thánh lễ tại Nhà Thờ Dòng Chúa Cứu Thế, tôi vào gặp ông Cẩn có ý trình cho ông biết tôi có lệnh Tướng Trí gọi vào Đà Nẵng. Tôi mở cửa phòng bước vào, ông Cẩn trong tư thế nửa nằm nửa ngồi, khuỷu tay tỳ lên gối, miệng vẫn nhai trầu cách thảm nhiên. Thấy tôi vào ông nói: "Hết rồi chú ạ!" Rồi ông ngước mắt nhìn qua khung cửa sổ, như muốn phóng tầm nhìn qua khoảng không gian không mấy xa, về hướng một căn nhà tranh thấp, thường xuyên thiếu ánh sáng. Có lẽ lúc ấy ông đang nhớ đến và muốn được nhìn thấy mặt bà mẹ già đã trên 90 tuổi, bệnh hoạn gần 20 năm qua, mọi việc riêng của bà đều phải nhờ người giúp đỡ, giờ đây nằm cô quạnh một mình. Một bà mẹ ông hết lòng phụng dưỡng, và từ tấm bé, ông chưa hề một ngày xa cách. Từ khóe mắt ông hai dòng nước mắt từ từ chảy dài trên má. Trước cảnh tượng ấy tôi đứng sững sờ, đến khi cảm thấy mằn mặn đôi môi, tôi cũng biết rằng mình cũng đang khóc.
Trần tĩnh lại, tôi trình ông lệnh Tướng Trí gọi tôi phải trình diện trong 24 giờ. Ông thở dài:
- Chú cứ đi.
Cho đến lúc ấy tình hình tại hai Sư Đoàn 1 và 2 vẫn còn yên tĩnh. Lực lượng Võ Trang Nhân Dân, ngoài Tỉnh Thừa Thiên, hai Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vẫn giữ được liên lạc. Chiều tối hôm trước, mồng 1, Đại Úy Nguyễn Thế Thanh Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 4 Thiết Giáp điện thoại cho tôi biết anh cùng với Đại Úy Dung, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn Chiến Xa sẵn sàng đặt Chi Đoàn dưới sự điều động của tôi. Anh đồng ý với tôi sẽ chuẩn bị mọi thứ cần thiết và sẵn sàng để có thể vào Huế bất cứ giờ nào. Sau khi "cách mạng" thành công, anh Thanh đã phải khốn khổ vì cú điện thoại này. Vì tên trực Tổng đài điện thoại muốn kiếm công với "cách mạng" đã báo cáo cuộc điện đàm của anh và tôi nêu trên. Khi Tướng Nguyễn Chánh Thi làm Tư Lệnh Quân Đoàn I, ông phạt anh 30 ngày trọng cấm, tuyên chuyển ra khỏi Vùng I Chiến Thuật trong vòng 24 tiếng đồng hồ với lý do: "Có hành động chống đảo chánh". Và hậu quả của cú điện thoại đã theo đuổi anh trong suốt cả quãng đời binh nghiệp còn lại của anh. Vì nó mà sau này mấy lần anh được đề nghị thăng cấp Đại Tá tại mặt trận, nhưng đều bị Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp phản đối với lý do: Có hành động phản "cách mạng".
Tôi trình cho ông Cẩn rõ tình hình và các phương tiện khả dụng và ngỏ ý muốn có một hành động hơi liều lĩnh. Tôi lý luận, nếu giữ được Quân Đoàn I thì các Tướng đảo chánh phải điều đình. Ông suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Tình hình khó giải quyết nhanh chóng được. Nếu kéo dài tình trạng hỗn loạn, Việt Cộng sẽ lợi dụng và dân sẽ khổ thêm. Chú đợi tôi suy nghĩ đã.
- Tối nay là hạn chót con phải trình diện ông Trí. Nếu Cậu quyết định cho hành động, Cậu nhờ một người đến cho con biết trước 5 giờ chiều nay. Nếu không nhận được quyết định gì của Cậu, thì 5 giờ con phải đi.
- Được, chú về cứ chuẩn bị cả hai mặt.
Vì cho đến giờ ấy, Tòa Đại Sứ Mỹ vẫn chưa cho biết kết quả về lời ông Cẩn yêu cầu được đưa cả thân mẫu qua Tòa Lãnh Sự. Tôi hỏi ông:
- Nếu con phải đi Đà Nẵng thì việc liên lạc với Tòa Lãnh Sự Mỹ về vấn đề Cậu qua tỵ nạn bên đó, giao cho ai?
- Chú ra nói Âu Ngọc Hồ lo giùm tôi. (Ông Âu Ngọc Hồ khi ấy là Tổng Thư Ký Viện Đại Học Huế, hiện định cư tại Los Angeles)
Trở về nhà, vì đường dây điện thoại của tôi đã bị cắt, tôi đang mung lung suy nghĩ cách nào nhanh nhất để liên lạc với Đại Úy Thanh nếu ông Cẩn cho hành động, và phải hành động thế nào, từ đâu, cho nhanh và gọn, thì ông Mullen Phó Lãnh Sự Mỹ tới. Lúc ấy khoảng hơn 10 giờ. Ông hỏi tôi:
- Ông có lệnh Tướng Trí gọi vào Đà Nẵng trình diện phải không?
- Phải. Sao ông biết.
- Tôi biết chứ! Ông sẽ đi bằng phương tiện gì?
- Tôi đi bằng xe.
- Không được. Tình hình này ông không nên đi xe. Để tôi kiếm một máy bay đưa ông đi.
- Nhưng tôi còn phải lo một vài việc cho gia đình, khoảng 5 giờ chiều tôi mới đi được.
- Tôi sẽ liệu 5 giờ có máy bay cho ông.
- Tôi không biết làm sao diễn tả được sự xúc động của tôi. Cám ơn ông rất nhiều. Rất nhiều.
Chừng 3 giờ chiều, Đại Úy Thiết đến nói với tôi.
- Tớ vừa nhận được lệnh của Quân Đoàn bảo báo cho cậu, 5 giờ chiều nay sẽ có máy bay đón cậu tại sân bay Thành Nội. Tớ sẽ đưa cậu đi. Tớ sẽ qua rủ Hùng (Đại Úy Ngô Văn Hùng) cùng đi cho vui.
Tôi hơi ngạc nhiên nghĩ trong bụng, tại sao ông Mullen nói lo máy bay cho mình mà bây giờ lại là lệnh của Quân Đoàn?
- Cám ơn Thầy. Chừng 4 giờ 30 Thầy cho con đi. (Tôi vẫn xưng hô với Đại Úy Thiết là Thầy, vì ông có dạy tôi ở lớp Đệ Thất)
Những giờ phút còn lại tôi nôn nóng chờ lệnh của ông Cẩn.
Hơn 4 giờ hai Đại Úy Thiết và Hùng đến, tôi nấn ná đến hơn 4 giờ 30 vẫn không thấy động tĩnh gì. Tôi dặn dò vợ con lần chót rồi ra xe đi với hai ông. Trên đường đi tôi ghé nhà ông Âu Ngọc Hồ, không gặp ông, tôi nhắn lại Bà Hồ lời ông Cẩn nhờ ông giúp liên lạc với Tòa Lãnh Sự Mỹ. Chúng tôi đến sân bay Thành Nội vừa lúc một máy bay Cesna hạ cánh.
Gần 6 giờ đến sân bay Đà Nẵng, tôi được Thiếu Tá Trương Trừng, Trưởng Phòng Nhì Quân Đoàn đón đưa về văn phòng Tướng Trí. Sau khi chỉ ghế mời ngồi, Tướng Trí nói với tôi:
- Tôi cho đưa anh vô đây, vì tình hình này để anh ở ngoài đó nguy hiểm cho anh.
- Xin cám ơn Trung Tướng. (hôm ấy ông Trí đã mang lon Trung Tướng)
Ông hỏi tôi:
- Anh cho tôi biết trong nhà ông Cậu có hầm vũ khí bí mật nào không?
- Thưa Trung Tướng, ngoài số súng do các Đơn Vị Trưởng đem biếu ông làm quà, mỗi khi hành quân thu được chiến lợi phẩm, để trong kho thẳng ngay cổng vào. Tôi bảo đảm với Trung Tướng không có hầm chôn giấu súng ống nào cả.
- Mai mốt chắc thế nào Hội Đồng Tướng Lãnh họ cũng hỏi đến anh. Trong khi chờ đợi lệnh của họ, tôi sẽ sắp xếp cho anh làm việc tại Bộ Tham Mưu Quân Đoàn. Anh cứ an tâm làm việc bình thường. Nhưng trước hết tôi nhờ anh đi các Tỉnh kêu gọi anh em Võ Trang Nhân Dân đừng chống chính quyền mới, giao nạp vũ khí cho Quân Đội, tránh mọi hành động gây xáo trộn tình hình.
- Thưa Trung Tướng, tôi sẵn sàng thi hành lệnh của Trung Tướng. Nhưng để được an tâm làm việc, xin Trung Tướng cho tôi nghỉ ngày mai, trở ra Huế đưa vợ con tôi vô đây đã. Vì chắc Trung Tướng cũng biết, tôi không có bà con thân thuộc gì ở ngoài đó hết.
- Anh không nên ra ngoài đó. Để tôi lo cho.
Nói rồi ông bấm interphone mời Đại Tá Trần Thanh Phong Tham Mưu Trưởng qua, (Đại Tá Phong sau lên Tướng, bị tử nạn máy bay tại Phú Yên) ông nói với Đại Tá Phong:
- Anh Minh đã vô trình diện. Anh ấy muốn trở ra Huế đưa gia đình vô, moa thấy không nên, có thể nguy hiểm cho anh ấy. Toa coi anh cần những gì để đưa gia đình vô thì giúp cho anh ấy. Còn việc làm thì như moa đã nói, sắp xếp cho anh ấy làm việc tại Bộ Tham Mưu Quân Đoàn.
Tôi đứng dậy chào, cám ơn Tướng Trí và đi theo Đại Tá Phong qua phòng ông. Sau khi nghe tôi trình bầy nhu cầu, ông gọi điện thoại cho Đại Tá Hiếu Tham Mưu Sư Đoàn I, yêu cầu sáng hôm sau cho một Tiểu Đội đến giúp chuyển đồ đoàn và cho xe chở theo xe gia đình tôi vào Đà Nẵng.
Tối hôm ấy Thiếu Tá Trừng mời tôi về nghỉ ở nhà anh.
Khoảng 8 giờ, Đại Tá Phong gọi điện thoại đến cho biết, sáng hôm sau có chuyến bay đưa mấy ông Tỉnh Trưởng vào họp tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, ông sẽ cho đón vợ con tôi đi theo máy bay này luôn. Nhưng đến khoảng 11 giờ Đại Tá Phong lại gọi tôi đến cho hay, buổi họp của các Tỉnh Trưởng tại Quân Đoàn vào sáng hôm sau đã được hủy bỏ. Không có máy bay nào khác từ Huế vào Đà Nẵng, nên không đưa gia đình tôi vào bằng máy bay được.
Ngày hôm sau, thứ tư 6. 11, vợ con tôi từ Huế vào bằng đường bộ. Chúng tôi được tạm cấp cho một căn nhà trong Cư Xá Thanh Bình. Bắt đầu ngày 7. 11, Đại Tá Phong đưa tôi đến làm việc tại Phòng Hành Quân với Thiếu Tá Phạm Cao Đông. Bốn ngày sau, trưa thứ hai 11. 11 tôi chưa kịp đi "chiêu an" Lực Lượng Võ Trang Nhân Dân mấy Tỉnh theo yêu cầu của Tướng Trí, khi trở lại Phòng Hành Quân sau bữa cơm tại Câu Lạc Bộ Sĩ Quan, Thiếu Tá Đông gọi tôi bảo đi theo anh Quân Cảnh đang đứng chờ trước cửa phòng, lên trình diện Trung Tá Tham Mưu Phó Quân Đoàn. Vào trình diện Tham Mưu Phó, Trung Tá Vũ Xuân Quang cho tôi biết:
- Quân Đoàn vừa nhận được lệnh từ Sài Gòn bảo đưa anh vào trình diện Tổng Bộ An Ninh. Anh về nhà lấy một vài thứ cần dùng hàng ngày và ra sân bay ngay, máy bay đang chờ anh ngoài đó.
Nói rồi ông đưa cho tôi một Sự Vụ Lệnh và ra lệnh cho anh Quân Cảnh:
- Anh đưa Đại Úy về nhà lấy ít đồ cần dùng, rồi đưa ông ra ngay sân bay kẻo trễ.
Lần đầu tiên tôi nghe danh từ "Tổng Bộ An Ninh". Lạ tai quá. Trên chiếc xe jeep, tôi ngồi cạnh tài xế, anh Quân Cảnh súng lục đeo lưng ngồi phía sau. Từ Bộ Tham Mưu Quân Đoàn về nhà, rồi từ nhà ra sân bay, trong đầu tôi lởn vởn ý nghĩ, Bộ An Ninh hẳn là bao gồm các cơ quan xưa nay thường được gọi chung bằng danh từ: Cơ Quan An Ninh như Công An, Cảnh Sát, An Ninh Quân Đội v. v. . . không biết mình sẽ lọt vào cơ quan nào đây?
Đến phi trường xe chạy thẳng tới chân thang máy bay, tại đây tôi gặp một Sĩ Quan rất quen thuộc cũng súng lục đeo lưng. Vị Sĩ Quan này là đảng viên Cần Lao tại Sư Đoàn II, trước ngày 1. 11 vẫn thường ra liên lạc, nạp báo cáo, phúc trình làng tháng cho tôi, Trung Úy Lê Công Đắc, hiện định cư tại Orange County, California. Tôi bắt tay chào hỏi anh như bình thường. Khi lên máy bay thấy anh và anh Quân Cảnh cùng lên theo, bấy giờ tôi mới biết mình bị "áp giải". Bước vào máy bay thấy hai Đại Úy Thiết và Hùng đã ngồi sẵn trên đó, tôi buộc miệng:
- Ủa! Thầy và anh cùng đi chuyến này hả?
Anh Hùng nhanh nhẩu:
- Ông Đính gọi chúng mình vào. Vậy là đủ bộ tam Xe, Pháo, Mã.
Tôi nháy mắt ra hiệu về hai người võ trang đi theo tôi, anh Hùng ồ lên một tiếng "mặc kệ họ".
Khoảng 5 giờ chiều máy bay đáp xuống sân bay Tân Sơn Nhất. Chúng tôi vừa bước xuống khỏi máy bay, Thiếu Tá Tôn Thất Đình (em Tướng Đính) đến nói: Trung Tướng Tổng Trưởng cho tôi ra đón 3 Đại Úy. Ông dẫn chúng tôi đến một xe Dodge đứng gần đó mời lên. Ba chúng tôi và hai người áp giải tôi cùng lên ngồi phía sau. Khi xe chuyển bánh, tôi ghé tai nói nhỏ với anh Hùng: Để xem xe rẽ ngã nào, có rẽ qua Lê Văn Duyệt không? Tôi có ý ám chỉ nếu xe rẽ qua Đường Lê Văn Duyệt là họ đưa chúng tôi vào khám Chí Hòa. Nhưng không, ra khỏi phi trường, xe chạy thẳng Đường Công Lý đưa chúng tôi đến Bộ Nội Vụ, khi ấy đã được đổi là Tổng Bộ An Ninh. Xe dừng, chúng tôi xuống xe, Thiếu Tá Đình cũng từ trên xe bước xuống nói:
Mời Đại Úy Minh lên gặp Trung Tướng Tổng Trưởng. Còn hai Đại Úy (Thiết và Hùng), xin cho tài xế biết địa chỉ để đưa hai Đại Úy về nhà.
Thiếu tá Đình dẫn tôi lên lầu, mời vào phòng khách ngồi đợi, vì Tướng Đính đang tiếp mấy nhà báo ngoại quốc. Hai người áp giải tôi cũng lên theo, đứng ở ngoài cửa.
Vào phòng đợi gặp anh Tôn Thất Chữ, vừa bị cất chức Tỉnh Trưởng Pleiku sau ngày 1.11.1963, tôi mới hỏi thăm anh được vài câu thì, Tướng Đính dẫn mấy nhà báo ngoại quốc từ trong văn phòng đi ra. Thấy tôi, ông hỏi:
- Bác vô khi mô? Ai Đưa bác vô?
- Thưa tôi mới vô tức thì.
- Bác đợi tôi một chút.
Sau khi tiễn mấy nhà báo đi rồi, từ dưới lầu đi lên ông vào thẳng phòng khách bắt tay tôi và hỏi:
- Ai đưa bác vô?
Tôi thoáng nghĩ trong đầu, hay nhỉ, cho lệnh gọi vô mà lại hỏi gì lạ vậy? Và thấy thái độ ông đối với tôi không có gì thay đổi, tôi trả lời vừa có ý thăm dò vừa chọc ông:
- Thì Trung Tướng cho lệnh Quân Đoàn I dẫn giải tôi vô trình diện Trung Tướng mà.
- Đứa mô, đứa mô, nói tôi ra lệnh dẫn giải bác?
Tôi chỉ ra cửa:
- Thì hai người có võ trang dẫn giải tôi từ Đà Nẵng vô kia kìa.
Ông quay phắt người lại:
-. . . Ai nói tụi bay dẫn giải ông ni?
Hai người dẫn giải tôi lặng lẽ đi nhanh xuống cầu thang.
Tướng Đính khoác vai tôi dẫn vào phòng, chỉ vào một đống giấy tờ để dưới sàn nhà trước bàn giấy của ông:
- Đó, bác coi, toàn là tài liệu các ông liên lạc với Bắc Việt, tính Trung Lập hóa miền Nam, nên anh em Tướng lãnh phải đảo chánh các ông.
Tôi ngắt lời ông:
- Thưa Trung Tướng, bây giờ thì mọi chuyện đã rồi. Nếu các ông có tội thì đã đền tội rồi. Bây giờ, trước hết tôi xin hết lòng cám ơn Trung Tướng đã nhớ đến và cho đưa tôi vào đây. Phần tôi như thế này là coi như bước đầu đã được an toàn. Nhưng tôi xin phép được nhắc Trung Tướng lời Trung Tướng nói với tôi mấy bữa trước đây, nếu Trung Tướng có tham gia đảo chánh là để cứu anh em. Vậy xin Trung Tướng đừng quên họ vì chắc giờ này, ở khắp nơi, họ đã bắt đầu gặp nhiều khó khăn và nguy hiểm lắm rồi.
- Bác yên chí, còn Ba Đính ở đây, không đứa mô dám đụng đến anh em mình mô.
Rồi ông hỏi:
- Khi đưa bác đi tụi nó có cho bác giấy tờ chi không?
- Thưa họ cấp cho tôi một Sự Vụ Lệnh. Vừa nói tôi vừa lấy tờ giấy từ trong túi ra đưa cho ông.
Mở ra đọc qua, ông với tay lên bàn bấm chuông. Người tùy phái mở cửa bước vào. Ông chỉ thị:
- Mời ông Đổng Lý Văn Phòng.
Ông Đổng Lý vào, Tướng Đính đưa tờ Sự Vụ Lệnh của tôi cho ông và ra lệnh:
- Ông đem tờ Sự vụ Lệnh này ra cho đánh máy vào phía sau: "Đại Úy Nguyễn Văn Minh đã trình diện Tổng Bộ An Ninh, được phép về nhà nghỉ". Đóng dấu sẵn đem vô tôi ký.
Trong khi chờ ông Đổng Lý vào lại, tôi ngồi nghe Tướng Đính kể về sự mệt nhọc và bận rộn của ông từ sau ngày "cách mạng thành công", mà không góp thêm lời nào.
Ông Đổng Lý đem giấy Sự Vụ Lệnh của tôi vào. Tướng Đính ký tên, trao lại cho tôi, ông nói:
- Bác cứ về nhà nghỉ, có chi rắc rối cho tôi biết.
Nhìn qua khung cửa sổ thấy đèn đường đã sáng, tôi cám ơn Tướng Đính một lần nữa, và xin phép ông ra về.
Ông hỏi:
- Bác về mô và đi bằng chi?
- Thưa Trung Tướng bây giờ tôi ra lấy taxi về nhà người bà con ở trước Trường đua Phú Thọ.
Tiễn tôi ra cửa, ông gọi người tùy phái bảo: Ra nói Thiếu Tá Đình đưa Đại Úy về nhà.
Về tá túc trong người bà con được ba bốn hôm thì, một buổi sáng khoảng 8, 9 giờ, Thiếu Tá Phạm Văn Tuy Chánh Văn Phòng Tướng Trần Văn Đôn đến kiếm tôi:
- Trung Tướng bảo tớ xuống đưa cậu lên gặp ông.
- Ủa, sao ông đang biết tớ đang ở đây?
- Tớ cũng chẳng biết nữa.
Anh Tuy đưa tôi lên Bộ Tư Lệnh Lục Quân, vào gặp Tướng Đôn ông hỏi tôi:
- Bây giờ anh có muốn lên Đà Lạt nữa không?
- Thưa Trung Tướng tình hình còn lộn xộn quá, đối với tôi lúc này, lên Đà Lạt có lẽ không được thuận tiện lắm. Nếu được, xin Trung Tướng cho tôi về một đơn vị nào ở Sài Gòn này thì tốt hơn. Nghĩ một chút, Tướng Đôn trả lời:
- Tôi cũng không nghĩ ra nơi nào thuận tiện cho anh. Bây giờ tôi phải ra Vũng Tàu chủ tọa một buổi lễ thay cho Trung Tướng Minh. Thôi anh ra bàn với Thiết và Tuy xem nơi nào thuận tiện, nói Tuy làm giấy tôi ký cho.
Sau khi cám ơn Tướng Đôn đã đối xử với tôi một cách thật đặc biệt, mà chính tôi lúc ấy cũng không thể ngờ được. Ra ngoài tôi cho hai ông Thiết và Tuy biết ý của Tướng Đôn. Ngay lúc ấy hai ông cũng không tìm ra được nơi nào thuận tiện cho tôi. Về nhà, buổi chiều anh Ngô Văn Hùng đến thăm, sau khi nghe tôi kể chuyện gặp Tướng Đôn anh nói:
- Bây giờ tôi đưa anh lên Đại Tá Trung, ông là Trưởng Phòng 1 Bộ Tổng Tham Mưu nay kiêm luôn Giám Đốc Nha Nhân Viên Bộ Quốc Phòng, chắc ông có thể chỉ cho anh được.
Anh Hùng lái xe đưa tôi đến tư thất Đại Tá Trung, trong khu sĩ quan cấp Tá Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi đến vừa lúc Đại Tá Trung sắp bước lên xe đi chơi tennis. Đến chào ông, anh Hùng mau mắn kể lại việc Tướng Đôn cho tôi được chọn đơn vị. Sau chừng vài phút thấy ông chưa trả lời, sợ trễ giờ chơi của ông tôi thưa:
- Để khỏi trễ giờ của Đại Tá, xin Đại Tá cho biết ngày mai giờ nào thuận tiện, tôi sẽ trở lại xin Đại Tá chỉ cho.
- Sáng mai chừng 9 giờ, toa đến văn phòng moa trong tòa nhà chánh, bên cánh trái, lầu một, moa sẽ cho biết nên về đơn vị nào.
Chúng tôi cám ơn chào Đại Tá Trung và ra về. Anh Hùng đưa tôi về nhà anh ở Đường Chi Lăng chơi. Khi xe chúng tôi gần đến ngã tư Phú Nhuận thì Đại Tá Trung lái xe theo bóp còi gọi. Xuống xe, tôi đến cạnh xe ông, ông bảo:
- Moa nghĩ ra rồi, toa nói với văn phòng Trung Tướng Đôn làm giấy cho toa về Nha Xã Hội đi. Ông Trương Khuê Quan được lắm.
- Dạ, tôi có nghe tên ông này khi ông được Tổng Thống Diệm nhờ ra Chùa Từ Đàm tìm hiểu nguyện vọng của các vị lãnh đạo tại đây. Không biết ông có coi tôi là "Cần Lao ác ôn" (danh từ thời đại) Không Đại Tá?
- Không đâu! Ông Quan là người hiểu biết lắm. Cứ về đó đi.
Tôi xin được mở một dấu ngoặc ở đây để nói một vài cảm nghĩ của tôi về Tướng Trần Văn Trung.
Với Trung Tướng Trần Văn Trung, tôi có thể nói không sợ ai: Ông là một vị Tướng "sạch". Khả năng văn hóa khá cao so với một số Tướng lãnh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tư cách, đạo đức, tình hình đôn hậu của ông, những người từng biết ông khó có thể phủ nhận. Không bao giờ ông trù ếm, trả thù ai. Ai gặp vận lao đao lận đận, ông đều mở rộng vòng tay giúp đỡ. Hầu như tất cả nhân viên dưới quyền từ Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan đến Binh Sĩ, ai cũng quý mến ông. Ngày mất nước, ông đã ở lại với đơn vị, với anh em cho đến khi ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông mới tìm đường thoát thân và may mắn ông đã thoát. Hiện ông định cư tại Pháp.
Với tôi, ông là vị Thầy khi tôi gia nhập quân ngũ, và cũng là vị Chỉ Huy Trưởng cuối cùng trong cuộc đời binh nghiệp của tôi.
Khi nhận được lệnh thuyên chuyển về Nha Xã Hội, tôi đến trình diện Trung Tá Quan. Quả đúng như Đại Tá Trung nói, Bác Sĩ Trung Tá Trương Khuê Quan, Giám Đốc Nha Xã Hội Quân Đội là một người rất hiểu biết, sống cởi mở, bình dị thật dễ mến. Và tất cả nhân viên mọi cấp của Nha Xã Hội cũng đều rất hòa nhã. Tại đây, tôi không hề thấy một dấu chứng nào của sự kỳ thị, chia rẽ tôn giáo, cũ mới.

PN99
03-12-2009, 19:49
Chương 3.6



TÔI THOÁT HIỂM


Sau ngày 1.11.1963, nhìn chung quanh, những người phục vụ gần Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Cố Vấn Ngô Đình Cẩn và mọi người "của chế độ cũ" mà tôi quen biết, tất cả đều đã bị bắt giam. Cùng ngày tôi phải vào trình diện Tướng Trí tại Đà Nẵng, ngày 4. 11, thì ông Hồ Đắc Trọng, người phụ trách phía dân sự tại văn phòng ông Ngô Đình Cẩn bị bắt. Trong hoàn cảnh ấy, mặc dầu bản thân tôi và vợ con tôi đã từ miền Trung vào được Sài Gòn yên ổn. Nhưng tôi vẫn chuẩn bị tinh thần luôn luôn sẵn sàng để vào "họp mặt" với bạn bè trong nhà giam.
Cho đến khi sóng gió trên chính trường miền Nam tạm lắng dịu, tất cả bạn bè, người quen, thấy tôi còm "nguyên vẹn" không "hề hấn xây sát gì", đều hết sức ngạc nhiên. Thậm chí có người còn nói rằng tôi đã theo phe "cách mạng". Và chính bản thân tôi, tôi cũng chẳng hiểu tại sao lại hưởng cái may mắn lớn lao như thế? Trong khi tôi hoàn toàn thân cô thế cô, và không hề gõ cửa bất cứ một vị "anh hùng cách mạng" nào. Mặc dù tôi được quen biết hấu hết quý vị ấy. Vì tôi đã hiểu được mặt trái của cuộc đời trước sự đổi thay quá phũ phàng của nhân tình thế thái.
Chính vì điểm này mà tôi xin được phép lạm dụng thì giờ của quý độc giả, để ghi lại ở đây một vài nguy hiểm, phiền hà tôi đã vượt qua một cách rất "nhẹ nhàng, trơn tru", ngoài sự suy nghĩ tưởng tượng của tôi. Để trước hết là tạ ơn Thượng Đế đã an bài những điều tốt lành cho con. Và thứ đến là ghi ơn tất cả các vị, các bạn bè, đã giữ nguyên vẹn tình cảm đối với tôi trong những ngày đầy bất trắc khi đất nước nổi cuộc bể dâu.
Trở lại từ khi tôi được Tướng Đỗ Cao Trí gọi vào trình diện ông tại Đà Nẵng, tôi đã ngạc nhiên khi ông Phó Lãnh Sự Mỹ đến hỏi tôi về lệnh này. Và rồi ông đã chu đáo cho một máy bay đưa tôi đi, thay vì để tôi đi đường bộ vì ông sợ sẽ có nguy hiểm cho tôi. Sau khi tôi đến Đà Nẵng, vợ con tôi cũng được Tướng Trí và Đại Tá Trần Thanh Phong Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn, lo liệu cho đưa từ Huế vào cách an toàn và cấp chỗ ăn ở thật tốt đẹp.
Đến khi được đưa từ Đà Nẵng vào Sài Gòn là do lệnh của Tướng Tôn Thất Đính. Nhưng như tôi đã kể ở phần trên, khi thấy tôi có mặt tại Tổng Bộ An Ninh, Tướng Đính đã ngạc nhiên hỏi tôi: "Bác vô khi mô? Ai đưa bác vô? "Sau này tôi mới được biết:
Ít ngày sau khi cuộc đảo chánh thành công, Tướng Đính đã đến nhiều nơi thuyết trình về thành quả cuộc "cách mạng". Khi đến Huế, gặp hai Đại Úy Thiết và Hùng, không thấy tôi, ông hỏi: Còn Minh đâu? Anh Hùng cho tôi biết tôi được Tướng Trí gọi vào Đà Nẵng rồi. Ông liền ra lệnh: "Về Sài Gòn kêu Đại Úy Minh vào trình diện tôi"Và sau đó thì ông quên luôn. Điều này tôi không dám trách ông, vì lúc ấy ông bận rộn quá mà. May nhờ Sĩ Quan Tùy Viên của ông, Đại Úy Nguyễn Duy Nghệ, đã cẩn thận ghi ngay lệnh của ông vào sổ tay. Khi về Sài Gòn, Đại Úy Nghệ đã theo lệnh trên thực hiện các công việc: Gửi Công Điện cho Quân Đoàn I đưa tôi vào trình diện Tổng Bộ An Ninh, yêu cầu Bộ Tư Lệnh Không Quân cho máy bay ra đón, và anh còn chu đáo nhờ chính Thiếu Tá Đình, em Tướng Đính ra sân bay đón chúng tôi.
Qua đến việc Tướng Trần Văn Đôn cho tôi chọn đơn vị ở Sài Gòn, tôi đã chọn Nha Xã Hội Quân Đội và đã được chính ông ký lệnh tuyên chuyển cho về đó. Nhưng chiều 29. 1. 1964, ông đến thăm Nha Xã Hội, Sĩ Quan các cấp trong Nha đứng xếp hàng đón ông, trong đó có tôi. Khi cuộc thăm viếng chấm dứt, Trung Tá Giám Đốc Trương Khuê Quan gọi tôi qua phòng cho biết, Tướng Đôn đã hỏi ông, ai cho tôi về đây? Khi được Trung Tá Quan trả lời, lệnh tuyên chuyển của tôi do ông ký. Và Trung Tá Quan diễn tả: Tướng Đôn tỏ vẻ hơi ngạc nhiên, ngúc ngúc đầu có vẻ suy nghĩ. Phải chăng cũng lại vì quá bận rộn với "công cuộc cách mạng" ông đã quên mất tình cảm tốt đẹp đã dành cho tôi khi mới đón nhận hào quang chiến thắng? Và đêm hôm ấy, ông là một trong số các vị "anh hùng cách mạng" bị hai Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm loại khỏi cuộc đua quyền lực.
Về Nha Xã Hội được khoảng hai tuần lễ, cuối tháng 11. 1963 tôi nhận được giấy Nha An Ninh Quân Đội gọi trình diện. Vì chưa bao giờ làm việc với các Nha, Sở kiểu này, tôi ngây ngô nghĩ rằng Nha gọi thì lên trình diện Giám Đốc Nha. Thế là, theo ngày giờ hẹn, tôi đến Nha An Ninh Quân Đội xin vào gặp Thiếu Tá Chánh Văn Phòng, anh Trần Hữu Độ. (Anh Độ là bạn học cùng khóa với tôi ở Huế. Thiếu Tá Độ có cấp bậc sau cùng là Đại Tá, hiện định cư tại San José) Gõ cửa bước vào tôi hỏi anh Độ:
- Cậu gọi tớ có chuyện gì đây?
- Ai gọi cậu?
Vì nghĩ rằng tất cả mọi giấy tờ của Nha đều phải qua mắt Chánh Văn Phòng, tôi nói:
- Ơ hay, Chánh Văn Phòng mà Nha gọi một Sĩ Quan đến trình diện lại không biết sao?
- Giấy gọi đâu đưa tớ coi.
Coi giấy gọi rồi, anh nói:
- May mà cậu đến đây, chứ đến đúng nơi gọi thì nó cum cậu rồi.
- Bắt tớ thì vợ con tớ đỡ phải nuôi chứ ăn nhằm gì.
- Giờ này mà cậu còn nói giọng ba gai nữa.
Nói rồi anh nhấc điện thoại, quay số và hỏi:
- Các anh mời Đại Úy Minh về chuyện gì đấy?
Sau khi nghe đầu dây bên kia trả lời, anh nói:
- Đại Úy Minh là bạn tôi. Tôi bảo lãnh ông ấy. Các anh có hỏi gì thì hỏi trong giờ làm việc. Ngoài giờ làm việc để ông ấy về. Bỏ điện thoại xuống anh nói với tôi:
- Chúng nó gọi cậu theo danh sách Hội Đồng Cách Mạng yêu cầu. Nhưng tớ đã bảo chúng nó rồi, chúng nó sẽ không giữ cậu đâu. Bây giờ cậu xuống phòng Công Tác xem nó hỏi cái gì.
Lần thứ nhất, tôi thoát không bị "cum".
Khoảng giữa tháng 1. 1964 tôi lại nhận được giấy Nha An Ninh Quân Đội gọi trình diện. Lần này trên giấy gọi ghi rõ: Trình Diện Thiếu Tướng Giám Đốc. Tôi đến trình diện Tướng Đỗ Mậu, được ông đối xử rất tử tế. Sau khi chỉ ghế mời ngồi, ông nói:
- Minh à! Tuy anh em mình ít gặp nhau, nhưng moa rất mến toa. Anh em cũng không ai phiền trách gì toa. Nên bữa ni moa cho gọi toa đến để khuyên toa một điều: Toa đừng mưu tính gì với các anh em cũ nữa nghe. Tình thế đã như ri rồi, toa có muốn mần chi cũng không mần được mô. Chỉ phiền và nguy hiểm cho toa thôi.
Nghe ông khuyên, tôi hết sức ngạc nhiên không biết ông muốn nói về chuyện gì. Tôi thưa lại:
- Thưa Thiếu Tướng, Thiếu Tướng muốn nói về việc gì? Tôi không hiểu!
- Thôi, toa đừng giấu moa. Moa đã nói moa rất mến toa, và vì tình anh em cũ moa mới kêu toa tới khuyên can. Nếu không, cứ để cho tụi nó hỏi toa, moa mất công mần chi.
- Tôi hết lòng cám ơn cảm tình Thiếu Tướng dành cho tôi. Nhưng quả thật tôi không hiểu Thiếu Tướng muốn nói về việc gì, làm sao tôi biết được là việc gì mà giấu.
Có lẽ nhận ra thái độ thành thật của tôi, ông nói thẳng ra:
- Toa không mưu tính gì với đám anh em cũ, thì toa ra phi trường đón Đặng Sỹ mần chi?
- Ồ! Thưa Thiếu Tướng, vậy thì tôi hiểu rồi. Xin Thiếu Tướng cho phép tôi được thưa: ứa nào đã báo cáo với Thiếu Tướng việc này theo tôi, thì một là nó ác ý muốn hại tôi, hai là nó ngu.
- Răng toa nói vậy?
- Thưa Thiếu Tướng vì nó chỉ báo cáo lý do phụ, mà lại giấu lý do chính về sự có mặt của tôi tại phi trường hôm ấy. Chắc Thiếu Tướng cũng dễ thấy, anh Sỹ bị dẫn giải chứ không phải là một hành khách bình thường, làm sao tôi biết anh đi chuyến máy bay ấy mà đón? Còn sự kiện tôi đón ba người đàn bà, một cô con gái và sáu đứa nhỏ đưa lên xe chở đi thì sao nó không báo cáo với Thiếu Tướng? Đó mới là lý do chính về sự có mặt của tôi tại phi trường hôm ấy. Những người đó là vợ, các con tôi và bà chị vợ từ Sài Gòn ra đưa vợ con tôi từ Đà Nẵng vào.
Như vậy Thiếu Tướng đã thấy lý do tôi có mặt tại phi trường hôm ấy là để đón vợ con tôi từ Đà Nẵng vào. Trong lúc tôi đứng trong phòng đợi, thì anh Sỹ được Hiến Binh áp giải đi qua. Tôi có tới bắt tay chào, hỏi thăm anh, vì dẫu sao cũng còn tình anh em. Cũng như Thiếu Tướng đối với tôi hiện giờ thôi. Chứ đâu phải tôi mưu tính gì.
- À! Ra rứa! Nhưng dầu sao moa cũng khuyên toa không nên liên lạc nhiều với anh em cũ, không có lợi cho toa.
Lần thứ hai, tôi thoát âm mưu của một tên tiểu nhân nào đó muốn tâng công với "cách mạng".
Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để viết đôi dòng về một sự kiện tôi được nghe trong dịp đến trình diện Tướng Mậu vừa kể trên.
Khi ngồi tại văn phòng Thiếu Tá Độ, đợi để vào trình diện Tướng Mậu, tôi được nghe hai sĩ quan mà một người tôi quen biết. Trung Úy Lê Vinh, sĩ quan ngành Quân Cụ. Sau này Trung Úy Vinh đậu bằng Cao Học Luật, đã chuyển qua ngành Ngoại Giao và qua làm việc tại Tòa Tổng Lãnh Sự Việt Nam ở Tân Đề Li, Ấn Độ. Ông Vinh còn ở Việt Nam. Khi đi cải tạo về tôi có gặp ông một lần, và được biết ông phụ trách ban kinh tế của thành đoàn thanh niên Cộng Sản Hồ chí Minh, Sài Gòn.
Sự kiện tôi được nghe Trung Úy Vinh và một số sĩ quan nữa đọc được, là bản tự khai của một thượng úy Việt Cộng, người Thượng, về hồi chánh. Viên thượng úy này khai lý do y xin hồi chánh:
". . . xin hồi chánh vì khu vực hoạt động đã hoàn toàn bị tê liệt vì Ấp Chiến Lược. Có lệnh rút ra Bắc. Nhưng không muốn bỏ vợ con buôn xóm, nên xin về hồi chánh".
Khoảng một tháng sau, tôi lại nhận được giấy Tòa Án "Cách mạng" gọi trình diện Dự Thẩm Phòng 1. Thú thật khi nhận được giấy gọi tôi cũng hơi "r ét". Nghĩ lui nghĩ tới không biết vì chuyện gì mà mình lại bị cái tòa án xử "kh ông theo luật" này chiếu cố?
Đúng ngày giờ hẹn, tôi đến tòa án gặp lúc ông Dự Thẩm Phòng 1 đi vắng. Người tùy phái cho biết chừng mười phút nữa ông Dự Thẩm về, và mời tôi ngồi trên ghế đợi trước cửa phòng. Quả nhiên 10 phút sau, một người đàn ông ăn mặc chững chạc, tay sách cặp da đi tới. Người tùy phái cho tôi biết người đó là ông Dự Thẩm Phòng 1. Tôi đứng dậy chào, ông bước tới bắt tay tôi nói:
- Chào anh Minh. Tôi là Trần Thanh Quan đây. Anh còn nhớ tôi không?
Vì chưa nhớ ra ông, tôi chưa kịp trả lời, ông đã mở cửa:
- Mời anh vô trong mình nói chuyện.
Sau khi cả hai cùng đã "an tọa" tôi dè dặt thưa lại:
- Thưa xin lỗi ông Dự Thẩm, tôi nhớ mài mại, không rõ, hình như tôi đã được gặp ông Dự Thẩm ở đâu rồi?
- Phải rồi, gặp nhau có một lần, lúc đó anh lại khách khứa nhiều quá làm sao nhớ được. Tôi là Trần Thanh Quan bạn anh Thiết. Hồi tôi bị đổi ra Tòa Thượng Thẩm Huế, được anh Thiết đưa lại thăm anh một lần. Anh nhớ ra chưa?
- Thưa có phải ông Dự Thẩm trước cùng là sĩ quan ngành Quân Cụ với ông Thiết?
- Đúng đấy.
- Vậy thì tôi nhớ ra rồi, thưa ông Dự Thẩm.
- Anh bị liên hệ đến vụ một ông già bị Quận Hương Trà bắt và tra tấn. Gia đình nạn nhân đâm đơn kiện. Hiến Binh đang thụ lý thì anh ra lệnh ngưng điều tra và xếp nội vụ. Anh có nhớ vụ này không?
- Thưa ông Dự Thẩm tôi nhớ. Vụ này là do anh em Bảo An Quận Hương Trà phục kích ban đêm, bắt được một ông già rải truyền đơn Việt Cộng. Đưa về Quận, khi hỏi cung để tìm ra đầu mối, ông không chịu khai, nhân viên thẩm vấn đã dùng biện pháp mạnh với ông, bị gia đình ông đệ đơn kiện. Khi Hiến Binh đang tiến hành cuộc điều tra thì ông Trần Quốc Thái, Quận Trưởng, đến nhờ tôi xin ông Cẩn can thiệp cho ngưng cuộc điều tra, kẻo anh em mất tinh thần hết cả. Ông Cẩn chỉ thị cho tôi hỏi Hiến Binh, nếu đúng là ông này bị bắt khi đang rải truyền đơn Việt Cộng, thì yêu cầu họ xếp nội vụ. Ông nói: "Với bọn hoạt động Cộng Sản, anh em có đối xử nặng tay một chút thì cũng bỏ qua cho người ta. Điều tra lên điều tra xuống hoài thì còn ai dám chống cộng nữa". Sau khi được Hiến Binh xác nhận ông già bị bắt quả tang đang rải truyền đơn Cộng Sản, tôi có yêu cầu họ ngưng điều tra và xếp nội vụ.
- Thời gian ở Huế tuy chỉ có mấy tháng, nhưng tôi đã thấy được những điều người ta nói về ông Cẩn và anh chẳng đúng chút nào. Việc của ông Cẩn ngoài tầm tay của tôi. Nhưng với anh, để có thể dẹp hẳn hồ sơ, tôi cần phải có biên bản cuộc hỏi cung và đối chất giữa anh và người Hiến Binh phụ trách vụ này. Nhưng anh yên tâm, anh chỉ thi hành lệnh trên, chẳng có tội gì, tôi sẽ lo cho anh.
Nói rồi ông cho mời ông Thượng Sĩ Hiến Binh ngồi đợi ngoài cửa vào. Sau khi nghe hai chúng tôi đối chất theo các câu hỏi ông đưa ra, ông cho Thượng Sĩ Hiến Binh ra về. Còn tôi ngồi lại với ông, ông nói:
- Anh đợi tôi viết xong biên bản, nếu anh đồng ý thì ký, rồi về.
Sau một hồi hý hoáy viết, ông đưa cho tôi biên bản cuộc đối chất và hỏi cung viết kín 4 trang giấy và bảo tôi:
- Đây là nội dung cuộc đối chất vừa rồi, anh đọc đi. Nếu anh đồng ý thì ký vô, để tôi cho xếp hồ sơ cho rồi.
Nhận xấp giấy từ tay ông Quan, tôi cầm bút ký không đọc một chữ nào và đưa cho ông.
- Vậy là xong. Anh yên tâm về đi, không có chuyện gì nữa đâu.
Và sau đây là trường hợp ông Trần Thanh Quan biết và rồi có cảm tình với tôi.
Khoảng giữa năm 1959-1960 gì đó, tôi không nhớ chính xác ngày tháng. Một buổi chiều tôi vừa từ văn phòng về nhà thì Đại Úy Thiết đến chơi, dẫn theo một người tôi chưa hề quen biết. Ông Thiết giới thiệu: Đây là Thẩm Phán Trần Thanh Quan bạn tớ, vừa từ Sài Gòn ra, tớ đưa lại thăm cậu.
Mời hai ông vào nhà, sau một hồi thăm hỏi qua lại về gia đình, công ăn việc làm, những chuyện trời nắng trời mưa, hai ông cáo từ ra về. Mấy hôm sau ông Thiết đến chơi lại, và bây giờ ông mới cho tôi biết, tại sao đưa ông Quan lại chơi cách bất ngờ không cho tôi biết trước. Ông kể:
"Trần Thanh Quan với tớ cùng ngành Quân Cụ, cùng được đi Pháp học về Quân Cụ với nhau. Sau khi được giải ngũ hắn học luật. Lấy được Cử Nhân Luật, thi đậu ngành Thẩm Phán, được đổi ra làm việc tại Tòa Thượng Thẩm ở đây (Huế). Khi biết hắn bị đổi ra đây, mấy người quen đã hù hắn rằng, ra Huế toa phải nhớ làm cho được hai việc:
1. Mỗi khi đi qua nhà ông Cẩn phải xuống xe đi bộ, không thì có ngày ở tù.
2. Phải làm sao gặp cho được thằng Đại Úy Minh ở văn phòng ông Cẩn, không thì sống không yên đâu.
Hắn sợ quá, nhưng không làm sao chạy chọt cho khỏi phải ra đây được. Nên vừa tới đây, từ xân bay Phú Bài hắn đem cả va li, đồ đoàn đến thẳng nhà tớ, kể lại sự tình nhờ tớ chỉ vẽ và che chở.
Nghe câu chuyện bịa đặt một cách ghê gớm và tức cười quá, thấy phải cho hắn biết sự thật, tớ bảo hắn: Từ lúc cậu tới đây tới giờ, tớ chưa ra khỏi nhà và cũng chưa liên lạc điện thoại với ai. Bây giờ để cậu thấy thực hư, cậu ra xe tớ đưa cậu lên nhà ông Cẩn rồi qua nhà Minh xem sao. Tớ lái se đưa hắn lên nhà ông Cậu, cho vào coi vườn, coi chim một vòng rồi đưa lại cậu. Trên xe về lại nhà tớ hắn cứ lắc đầu: Tại sao người ta lại có thể bầy đặt ra một cách quái đản như vậy?"
Ông Quan làm việc ở Huế bao lâu, được thuyên chuyển về Sài Gòn khi nào tôi không hay. Lần thứ hai tôi được gặp ông tại tòa án "cách mạng" như vừa kể trên.
Ít lâu sau, tôi được biết ông Quan được qua làm việc tại Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Pháp. Hy vọng bây giờ ông cũng còn ở Pháp và đọc được những dòng này, tôi viết để bày tỏ lòng cám ơn và cảm phục, một con người lương hảo trong giới cầm cân nảy mực, giữa thời buổi cường quyền ngồi trên công lý.
Trước khi chấm dứt mục này, tôi thấy không thể để sót, không kể ra đây một sự kiện lạ lùng đã xảy ra đến với tôi trong cả hai lần tôi gặp cảnh khó khăn nhất trong cuộc đời. Và cũng để ghi lại đây một tấm lòng quý hóa của một người anh em, mà tôi và vợ con tôi không khi nào quên ơn.
Thời gian làm việc với ông Cẩn. Đôi lần vào Sài Gòn, mỗi khi tôi đi đây đó, được một người anh em, chú Trần Hữu Tuệ, cùng đi, giúp tìm những địa chỉ tôi cần đến (chú Tuệ hiện định cư tại Vancouver Canada). Sự quen biết, tình cảm giữa anh em chúng tôi chỉ có thế. Chú Tuệ làm ăn sinh sống ở Sài Gòn. Một lần ra Huế thăm người đàn anh đang là sinh viên lớn tuổi nhất của Đại Học Luật Khoa Huế, ông Nguyễn Hữu Tiệp, chú có ghé thăm tôi. Ngoài ra giữa hai chúng tôi chẳng có tiếp xúc, liên lạc gì với nhau.
Vậy mà, trưa ngày 2. 11. 1963, chú từ đâu không biết, đã đến với chúng tôi: "Em biết lúc này anh rối rắm lắm. Em ra xem anh có cần gì đến em không. Nếu anh phải vắng nhà thì xin anh cứ yên tâm. Em sẽ lo mọi chuyện cho chị và các cháu". Chú đã giúp đỡ vợ con tôi mọi chuyện từ Huế vào Đà Nẵng, và xuốt hơn một tháng vợ con tôi ở Đà Nẵng. Khi vợ con tôi vào Sài Gòn bằng đường hàng không, thì chú đã đi theo xe chở đồ đạc của chúng tôi từ Đà Nẵng vào đến Sài Gòn.
Sáng ngày 30. 4. 1975, khi nghe ông Dương Văn Minh ra lệnh chuẩn bị bàn giao cho "cách mạng". Tôi không gặp được Trung Tướng Trung để xin quyết định của ông về Trung Tâm Huấn Luyện Hạ Sĩ Quan Chiến Tranh Chính Trị tôi đang chỉ huy, vì ông mắc họp với ông Dương Văn Minh trong Dinh Độc Lập. Tôi tập họp toàn bộ nhân viên, khóa sinh của Trung Tâm Huấn Luyện, làm lễ chào cờ lần chót rồi ra lệnh giải tán Trung Tâm.
Về nhà chở vợ con đi kiếm đường thoát, nhưng đã quá trễ. Tôi cùng với dòng người đồng cảnh vào tá túc trong Đại Chủng Viện Sài Gòn trên Đường Cường Để. Chừng hơn bốn giờ chiều, chú Tuệ lại xuất hiện: "Chắc anh chị và các cháu từ sáng tới giờ chưa có gì ăn. Em đem đến ít ổ bánh mì, anh chị cho các cháu ăn cho đỡ đói". Tôi ngạc nhiên đến sững sờ: "Sao chú biết chúng tôi ở đây mà đến?". Chú trả lời tôi bằng tiếng cười hì hì: "Để em chạy đi kiếm cho các cháu ít nước uống". Chú đã ở lại với chúng tôi suốt đếm hôm ấy cho đến sáng hôm sau, khi đề nghị xuống Vùng IV kiếm đường vượt biên của chú bị tôi bất đắc dĩ từ chối. Vì qua một đêm suy nghĩ, tôi không biết gửi gắm 1 vợ, 9 đứa con với 20 bàn tay vừa yếu ớt vừa trắng trơn cho ai. Nhưng rồi tôi cũng bỏ lại vợ dại con thơ, để họ tự bươm chải trong dòng đời đảo điên một cách thật thảm hại suốt gần mười năm trường. Trong khi tôi cùng hàng chục ngàn bạn đồng ngũ đủ mọi cấp "được học tập lao động" trong các trại tù cải tạo Cộng Sản.

PN99
03-12-2009, 19:52
Chương 3.7



NGŨ "ĐẠI TRỤ"


Trong mục này tôi xin được đề cập tới một số quý vị Tướng lãnh, mà tôi xin được mạn phép gọi là "Ngũ Đại Trụ". Vì theo chỗ tôi cũng như nhiều người biết, quý vị là những nhân vật "trụ cột", quyết định sự thành bại của cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 và chỉnh lý đêm 29 rạng ngày 30. 1. 1964.
Nhưng trước khi nói ra đôi điều tôi được biết về quý vị, tôi xin được công khai nhìn nhận rằng, tất cả quý vị đều là ân nhân của tôi. Tôi vô cùng cảm kích và không bao giờ, cho đến bây giờ, khi viết những dòng này, tôi có thể quên được tình cảm quý vị đã dành cho tôi sau ngày 1.11.1963. Đặc biệt, với quý cố Trung Tướng Trần Văn Đôn, cựu Trung Tướng Tôn Thất Đính và cố Thiếu Tướng Đỗ Mậu.
Tôi biết khi ghi lại những hiểu biết nhỏ nhoi của tôi hoặc trực tiếp, hoặc do lời kể của nhân chứng về quý vị, trong các phần trước và trong mục này, có những điều làm quý vị không được vừa lòng.
Nhưng kính thưa quý vị, điều đó không hề vương vấn một chút "vô ơn bạc nghĩa nào". Điều đó chỉ vì, trách nhiệm và lương tâm đối với các thế hệ mai sau. Vì những thế hệ này, trong nhiệm vụ phục vụ Quê Hương và Dân Tộc, họ cần và phải được học hỏi những điều hay, cũng như những cái dở, nơi những người đi trước. Nhất là nơi những người đã từng một thời tự dành lấy trách nhiệm đối với sự Thịnh Suy của Đất Nước, sự Tồn Vong của Dân Tộc.
Tôi thành thật kính trọng mong được quý vị thông cảm và thứ lỗi.
TRUNG TƯỚNG TRẦN VĂN ĐÔN
Tôi được nghe tên Tướng Trần Văn Đôn khi ông là Đại Tá Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Quốc Gia thời Tướng Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham Mưu Trưởng. Sau này tên tuổi ông được nhắc đến nhiều hơn, khi ông tổ chức buổi lễ "h ỏa thiêu" cấp hiệu của quân đội Pháp mà quân đội quốc gia vẫn mang, khi cấp hiệu này được thay thế bằng bông mai. Tôi chỉ thực sự biết và được tiếp xúc với ông, khi ông ra giữ chức Tư Lệnh Quân Khu II, giữa tháng 10. 1957.
Là một Tướng lãnh hàng đầu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, ông sinh trưởng tại Pháp, học Trường sĩ quan của Pháp ở Tông và Bắc Việt năm 1944, phục vụ trong quân đội Pháp. Ông hồi Việt tịch và tiếp tục phục vụ trong Quân Đội Quốc Gia với cấp bậc Đại Tá, khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thu hồi nền độc lập hoàn toàn cho đất nước.
Từ hồi xa xưa, không biết được phát minh từ giới nào, sinh viên, học sinh hay Quân Nhân, mà đám thanh niên hầu như không ai không biết ba điều kiện "phải có", để được lọt vào mắt xanh của các "nàng tiên", "Đẹp trai-Học giỏi-Con nhà giàu". Với Tướng Đôn, hai điều kiện 1 và 3 ông có dư. Riêng điều kiện 2 thì tôi không được rõ, nhưng có điều chắc, ông không phải là người kém thông minh. Vả lại, điều kiện này nếu có thiếu nơi ông, thì nó đã được thay thế bằng địa vị lớn nhất nhì trong Quân Đội Quốc Gia khi trước, và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sau này. Vì vậy mà ông đã lọt vào mắt xanh không phải chỉ một, mà quá nhiều nàng tiên. Cũng vì vậy mà ông đã bị mang nhiều tai tiếng về vụ đàn bà con gái.
Người miền Nam thường được coi là bộc trực, thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Nhưng trường hợp Tướng Đôn lại là một biệt lệ. Là con người đa cảm, ông cư xử rất khôn khéo, kín đáo, ít nói, rất nhã nhặn, lịch sự với mọi người kể cả hàng Binh Sĩ. Gần như ông không làm mất lòng ai bao giờ.
Sau khi ông nhận chức Tư Lệnh Quân Khu II được ít ngày, một hôm ông Cẩn gọi tôi bảo:
- Ông Đôn xin một Sĩ Quan làm Chánh Văn Phòng, chú coi trong anh em có ai không?
- Thưa Cậu, ông Đôn là Tây con, một Sĩ Quan làm Chánh Văn Phòng cho ông phải thông thạo tiếng Pháp mới được. Ở đây con không biết có anh em nào không. Nhưng con có ông Thầy dạy con hồi nhỏ, hiện là Sĩ Quan Quân Cụ ở Sài Gòn. Ông có bằng tú tài Pháp, đã đi Pháp học về quân Cụ, nói tiếng Pháp lưu loát.
- Chú vô Sài Gòn xin cho anh nớ tuyên chuyển ra ngoài ni.
Hai ngày sau tôi vào Sài Gòn, đến gặp ông Thầy cũ của tôi, Trung Úy Phạm Văn Thiết, trong Khu Cư Xá Hòa Bình đối diện rạp chiếu bóng Palace ở Đường Trần Hưng Đạo. Tôi phải mất gần một buổi tối mới thuyết phục được ông bỏ Sài Gòn. Ông Thiết làm Chánh Văn Phòng cho Tướng Đôn đến sau ngày đảo chánh 1.11.1963 ít lâu sau thì ông về lại ngành Quân Cụ.
Ít tháng sau, Tướng Đôn ngỏ ý xin Linh Mục Đỗ Bá Ái, Giám Đốc Tuyên Úy Công Giáo Quân Khu II, dạy đạo và rửa tội cho ông. Cha Ái đã khuyên ông không nên gấp gáp quá, hãy bình tĩnh tìm hiểu đạo cho thấu đáo, ngài sẽ giúp ông trong chuyện đó. Ngài cũng lưu ý ông rằng, điều cốt yếu là thực sự TIN và MUỐN. Vấn đề rửa tôi chưa cần thiết, vì theo ý ngài, việc ông vào Đạo Công Giáo lúc này sẽ làm mất thế giá của ông. Sau này nhiều lần gặp ngài ông Đôn không nhắc gì đến chuyện học đạo nữa.
Vì có quen biết với Ông Bà Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn từ trước, nên Tướng Đôn không những được hai ông mà cả Tổng Thống Diệm có phần tin tưởng, nể trọng. Phần Tướng Đôn, trước mặt Tổng Thống Diệm và ông Nhu, ông Cẩn, ông cũng giữ được tư cách tương đối xứng đáng hơn nhiều vị tai to mặt lớn và Tướng lãnh khác.
Suốt thời gian ông giữ chức Tư Lệnh Quân Khu II, sau là Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật, từ cuối 1957 đến cuối 1962, thỉnh thoảng tôi chỉ gặp ông trong nhà ông Cẩn, không có dịp gặp riêng ông bao giờ. Ngoại trừ một lần ông mời tôi dùng cơm gia đình với ông tại tư dinh. Dự bữa cơm chỉ có ông, Đại Úy Thiết và tôi. Bữa cơn thanh đạm, đặc biệt có món cá bát sống chấm mắm tôm. Một món ăn mà tôi nghĩ, người miền Nam rất ít, có thể nói là không ai biết thưởng thức. Vì đó là món chỉ dành cho người dân nghèo miền Bắc. Ông tỏ ra có cảm tình với tôi nhiều hơn chỉ từ sau cuộc binh biến 11.11.1960.
Số là khi cuộc binh biến 11.11.1960 xảy ra, không biết do ngẫu nhiên hay có mưu tính, mà các Tư Lệnh Quân Đoàn và Sư Đoàn đều về họp tại Sài Gòn. Khi vụ binh biến thất bại, vì muốn sắp xếp lại nhân sự trong các chức vụ chỉ huy, nên các vị này được yêu cầu tạm lưu lại Sài Gòn, trong đó có Tướng Đôn. Tướng Hồ Văn Tố được Bộ Tham Mưu đưa ra tạm Quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật. Mấy ngày sau Tướng Tôn Thất Đính cũng từ Sài Gòn ra, tạm nghỉ tại nhà vãng lai cấp Tướng, trong khi Tướng Tố cũng đang tạm trú tại đó. Ban đêm, một cuộc sô xát xảy ra giữa hai ông Tố và Đính. Sáng hôm sau khi biết sự việc, ông Cẩn nói với tôi: "Mình muốn nâng đỡ cho Đính, mà hắn con nít quá như ri, mần răng?" Chú lên viết thơ trình Tổng Thống xin cho ông Đôn ra lại!.
Mấy ngày sau Tướng Đôn ra nắm lại Quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật.
Khoảng hai tháng sau, đầu năm 1961, một hôm ông Cẩn gọi tôi bảo: Chú chuẩn bị bàn thờ Tổ Quốc trên Văn Phòng, để 10 giờ sáng mai cho ông Đôn tuyên thệ gia nhập đảng. Tôi sẽ chủ trì buổi lễ. Chú cũng chuẩn bị một tiệc trà nhỏ để sau buổi lễ anh em uống trà cho vui. Không may đêm ấy ông Cẩn bị đau bất thình lình. Sáng hôm sau ông phải ủy cho ông Nguyễn Đình Cẩn, Bí Thư Khu Bộ Phan Đình Phùng, cơ sở đảng Cần Lao dân sự tại Trung Phần, thay ông chủ trì buổi lễ tuyên thệ gia nhập đảng Cần Lao của Tướng Đôn.
Suốt 5 năm nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật, khi ở Huế, lúc ở Đà Nẵng, Tướng Đôn luôn giữ được mối liên hệ rất tốt với ông Cẩn. Lâu lâu ông vẫn ra vào ông Cẩn một cách vui vẻ, kính cẩn. Kể cả khi ông đã rời Quân Đoàn I vào giữ chức Tư Lệnh Lục Quân tại Sài Gòn, khi Bộ Tư Lệnh này được thành lập vào cuối năm 1962. Ông đã để Đại Úy Thiết ở lại Huế, một phần là để giữ cho mối liên hệ giữa ông và ông Cẩn không bị gián đoạn và trở ngại. Và ba ngày trước ngày ông khởi động cuộc đảo chánh, ngày 28. 10. 1963, ông vẫn ra "mừng sinh nhật" ông Cẩn.
Phần ông Cẩn, cũng vẫn dành cho Tướng Đôn sự trọng nể hơn các Tướng lãnh khác, ngoại trừ Đại Tướng Nguyễn Văn Tỵ. Mắc dầu Tướng Đôn hay bị tố cáo về vấn đề liên hệ với nhiều phụ nữ, nhưng ông Cẩn vẫn tỏ ra có một quan niệm rộng rãi đối với ông về vấn đề này, như tôi đã kể trong phần về con người ông Cẩn.
Được tất cả các vị lãnh đạo Đệ I Cộng Hòa nể trọng và biệt đãi như vậy nhưng, Tướng Đôn lại đã âm thầm tổ chức cuộc đảo chánh lật đổ các vị ấy như chính ông kể lại với tôi sau đây.
Sau khi ông bị hai Tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm chỉnh lý đêm 29 rạng ngày 30. 1. 1964 cùng với một số bạn "đồng hội đồng thuyền", bị giam lỏng và quản thúc một thời gian, rồi bị giải ngũ và được tự do. Một hôm ông cho Thiếu Tá Phạm Văn Tuy Chánh Văn Phòng của ông, mới tôi đến ăn cơm với ông tại nhà anh, trong một hẻm nhỏ ở cuối Đường Nguyễn Tri Phương gần Chợ Cá Trần Quốc Toản. Dự bữa cơm chỉ có ông, anh Tuy và tôi. Trong bữa ăn ông đề cập đến hai việc:
Việc thứ nhất là vụ đảo chánh 1.11.1963. Đại để ông cho tôi biết phần lớn việc thực hiện cuộc đảo chánh 1.11.1963, từ sắp đặt kế hoạch, móc nối tổ chức nhân sự ở các nơi đều do ông thực hiện. Khi mọi việc đã được sắp xếp xong xuôi rồi, chỉ còn chọn ngày giờ hành động, mới đưa ông Dương Văn Minh vô, vì ông Minh từ trước vẫn được coi là đàn anh của các Tướng lãnh, sau Đại Tướng Lê Văn Tỵ. Nhưng ông (Đôn) không dính dấp gì đến cái chết của Tổng Thống Diệm và ông Nhu.
Theo câu Tướng Dương Văn Minh nói với Hội Đồng Tướng Lãnh, chiều ngày 2. 11. 63, sau khi cuộc đảo chánh thành công: "Các "toi" còn cần gì "moi" không để "moi" còn đi đánh tennis"? thì điều thứ nhất trên đây có lẽ Tướng Đôn nói thật.
Tướng Đôn cũng cho tôi biết, sáng ngày 2. 11, nếu Tổng Thống Diệm giữ im lặng chừng nửa tiếng đồng hồ nửa tiếng đồng hồ nữa thì các Tướng đảo chánh đã chạy trốn rồi. Vì lúc 6 giờ 30 khi cánh quân của Sư Đoàn 5 chiếm được Dinh Gia Long, ông Thiệu báo cáo không thấy Tổng Thống và ông Nhu, không biết hai ông ở đâu. Các Tướng đảo chánh lúc ấy mất hết tinh thần, hốt hoảng chuẩn bị vào Bộ Tư Lệnh Không Quân để chạy sang Cao Miên hoặc Thái Lan. Vừa lúc ấy thì nhận được điện thoại Tổng Thống cho biết đang ở Nhà Thờ Cha Tam và yêu cầu đón ông về Bộ Tổng Tham Mưu.
Khi tôi hỏi lý do làm đảo chánh, ông nói:
- Một mặt vì tình hình nội bộ không giải quyết được vụ Phật Giáo. Những bất ổn càng ngày càng trầm trọng gây nhiều bất mãn. Trong khi tình hình chiến sự ở mọi nơi đều gia tăng cường độ, kể từ khi có những bất ổn nội bộ. Mặt khác vì áp lực quá mạnh từ phía người Mỹ. Nếu còn Tổng Thống và ông Nhu thì mình sẽ không có phương tiện chiến đấu.
- Thưa, Trung Tướng nói không dính dấp gì đến cái chết của Tổng Thống và ông Nhu nghĩa là làm sao?
- Tôi thật sự ân hận về việc này. Tôi, ông Đính và ông Khiêm không hề có ý định làm hại tính mạng ông Cụ và ông Cố Vấn (Nhu). Khi được biết ông Cụ và ông Cố Vấn ở Nhà Thờ Cha Tam và yêu cầu đón hai ông về Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đã nói ông Đính cho người đi đón, nhưng sau đó Trung Tướng Minh dành cử người đi. Thấy ông Minh sai ông Xuân đi tôi đã nghĩ ngay đến việc phải bảo vệ hai ông. Tôi nói với Đại Tá Lắm cùng đi với ông Xuân, và yêu cầu ông Xuân phải đến gặp ông Đính trước khi đến đón ông Cụ và ông Cố Vấn. Khi đoàn xe đi rồi tôi yên tâm và dọn phòng Đại Tướng Tỵ, cắt đường dây điện thoại, cho đặt thêm giường. . . để hai ông tạm nghỉ trong khi chờ máy bay đưa ra ngoại quốc. Công việc chưa xong thì tôi được báo, hai ông đã chết.
- Thưa, lúc ấy Trung Tướng có tin là hai ông tự tử không?
- Khi vừa nghe tin, tôi ra ngay phòng họp thấy ông Xuân lên báo cáo với ông Minh "mission accomplie" (nhiệm vụ hoàn tất) tôi biết ngay là hai ông bị giết.
- Thưa Trung Tướng, vậy tại sao Hội Đồng Tướng Lãnh lại ra thông báo là hai ông tự tử?
- Vì lúc ấy không ai ước tính được phản ứng của thế giới, của dân chúng, nhất là dân di cư, và ngay cả trong Quân Đội, nếu họ biết hai ông bị giết sẽ ra sao. Nên phải nói như vậy để, một mặt an dư luận, một mặt thăm dò phản ứng.
Việc thứ hai được ông đề cập là, đề nghị tôi hợp tác tổ chức một cuộc "đảo chánh". Chắc vì ông nghĩ rằng tôi có khả năng quy tụ được một số nhân vật và lực lượng đáng kể (Cần Lao). Ít lâu sau, thấy tôi chưa đáp ứng, ông đã nhắc lại đề nghị này trong dịp cựu Đại Tá Nguyễn Hữu Duệ và tôi đến phân ưu với ông Trần Văn Đôn khi thân phụ ông qua đời. Vì đã biết rằng khi ấy mọi việc đều do người Mỹ sắp đặt, Đại Tá Duệ và tôi bảo nhau cùng làm thinh trước đề nghị của Tướng Đôn.
Tôi cảm thấy chưa được thỏa mãn về những giải thích của ông. Bởi vì, ông là một Tướng lãnh hàng đầu của Quân Đội, từng đại diện Chính Phủ và Quân Đội điều tra về tai nạn tại Đài Phát Thanh Huế đêm mồng 8. 5. 1963. Trước kia ông từng sinh hoạt hàng tuần với ông Ngô Đình Nhu về tình hình chính trị, quân sự trong nước và ngoại quốc. Hơn ai hết ông phải biết nguyên nhân và thực trạng của những vấn đề ông đưa ra để chứng minh cho hành động làm đảo chánh của ông, mà tôi cho là quá đơn giản và không hoàn toàn chính xác. Vì vậy, tôi vẫn thắc mắc có tìm hiểu thêm xem có động lực nào khác nữa, đã góp phần thúc đẩy ông có hành động nhiều mạo hiểm đối với bản thân ông, và thiếu thành thực đối với những người luôn thành thực với ông. Cho đến sau ngày 30.4.1975, qua một số sự kiện và đến khi được đọc Hồi Ký của ông, tôi mới thấy được những động lực này.
Chắc nhiều độc giả biết và còn nhớ, thời Đệ II Cộng Hòa, sau khi bị rớt khỏi Thượng Viện, Tướng Đôn đã ra ứng cử và đắc cử Dân Biểu tại Quảng Ngãi. Hồi ấy, trong nhiều dịp gặp gỡ riêng tư, một số bạn bè nguyên là Cán Bộ Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, đảng viên đảng Cần Lao, quê quán tại Quảng Ngãi và các Tỉnh thuộc Vùng I Chiến Thuật, đặt nghi vấn và hỏi tôi về sự kiện này. Vì ai cũng có thể thấy 90% dân chúng Tỉnh Quảng Ngãi không biết đến tên Tướng Đôn, nói chi đến thành tích hoạt động của ông mà bầu cho ông. Và với tình hình an ninh thời bấy giờ, làm sao Tướng Đôn đến được các Thôn xã của một Tỉnh vốn là lãnh địa của cơ quan đầu não (liên khu ủy) của liên khu 5 Việt Cộng, để vận động, ra mắt dân chúng? Về phía Quốc Gia, Quảng Ngãi là lãnh địa của Quốc Dân Đảng. Tướng Đôn không phải là đảng viên Quốc Dân Đảng. Thực tình khi ấy tôi chỉ nghĩ rằng đó là kết quả do "phù phép" của chính quyền.
Nhưng, sau ngày 30. 4. 1975, người dân Sài Gòn, nhất là giới nghệ sĩ, đều biết cô "đệ nhất đào bi" Kim Cương được chính quyền Cộng Sản ưu đãi đặc biệt, vì cô đã được móc nối và cộng tác với họ từ trước. Dĩ nhiên là cô được dùng để thực hiện nghiệp vụ gián điệp bằng mỹ nhân kế. Có nhiều người còn cho biết, họ đã từng thấy cô mang cấp bậc thiếu tá Cộng Sản. Từ sự kiện này, tôi nhớ lại sự liên hệ tình cảm khắm khít giữa Tướng Trần Văn Đôn và cô đào này. Họ khắm khít nhau đến độ có nhiều chuyện tình tứ, mây mưa. . . giữa hai người đã được ghi nhận. Một mối tình mà người ta thường gọi là: "Già nhân ngãi, non vợ chồng". Tôi thấy rằng, mối tình này đã ảnh hưởng không nhỏ trên quyết định làm đảo chánh của Tướng Đôn, đã đưa ông ra ứng cử và đặc cử Dân Biểu đơn vị Quảng Ngãi.
Thi hành công tác gián điệp, cô Kim Cương khi đã "chài" được Tướng Đôn, cho dù cô có thật sự si mê ông đi nữa, thì tình yêu cô dành cho ông cũng không thể nào là thứ tình "cho không biếu không" được.
Vì vậy, việc nữ gián điệp Kim Cương dùng mối tình khắm khít cô dành cho Tướng Đôn để khai thác và ảnh hưởng trên ông trong những công việc và quyết định của ông trong các chức vụ ông nắm giữ, để mang lại lợi ích tối đa cho tổ chức của cô là điều dễ hiểu. Theo tôi, đây là động lực thứ hai, sau những hứa hẹn của chính quyền Hoa Kỳ, đã thúc đẩy Tướng Đôn tổ chức cuộc đảo chánh một cách quá liều lĩnh. Liều lĩnh với bản thân ông nếu cuộc đảo chánh bất thành. Nhất là liều lĩnh với tương lai đất nước khi ông tổ chức đảo chánh lật đổ cả một chế độ, một bộ máy điều khiển cuộc chiến chống cộng đang đi vào giai đoạn quyết liệt, chỉ vì bất bình với chế độ chứ chẳng phải vì tình hình nội bộ, tình hình an ninh v. v. . . như ông đã nói với tôi. Điều này do chính Tướng Đôn thú nhận trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng của ông, khi Lucien Conein, người đại diện của Đại Sứ Cabot Lodge bên cạnh các Tướng đảo chánh hỏi ông, sáng sớm ngày 2. 11:
Conein hỏi: "Theo lời yêu cầu của chính phủ Mỹ, xin quý ông cho biết chương trình hoạt động sau khi cuộc đảo chánh hoàn thành".
Tướng Đôn ghi lại: "Tôi thối thác vì thực ra chúng tôi chưa bàn với nhau gì về chương trình xây dựng sau khi đảo chánh thành công. Chúng tôi làm vì bất bình chứ chưa phải là người chính trị". ( Việt Nam Nhân Chứng. Trang 227)
Một hành động có tính cách quyết định tương lai của cả một dân tộc đã được các Tướng đảo chánh ngày 1.11.1963 làm chỉ vì "bất bình chứ không hề có một kế hoạch gì để xây dựng sau đó".
Hành động vô ý thức, vô chính trị của các Tướng đảo chánh được Tướng Đôn thú nhận trên đây, đã được Bắc Việt đánh giá bằng 10 năm chiến đấu của họ.
Trong bản phân tích tình hình sau chính biến 1.11.1963 tại miền Nam được Hà Nội phổ biến, để hướng dẫn cán bộ của họ khai thác những thuận lợi do chính biến này đem lại, có đoạn viết:
"Cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam lật đổ chế độ độc tài, khát máu, gia đình trị Diệm-Nhu đã giúp cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta rút ngắn được ít nhất là mười năm".
Tài liệu nói trên đây do một đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc Quân Đoàn III bắt được trong cuộc hành quân tại mật khu Hố Bò thời gian ngắn sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, được giao nạp cho Phòng 2 Bộ Tổng Tham Mưu và Cục An Ninh Quân Đội.
Tôi không biết Tướng Đôn và các bạn "đồng hội đồng thuyền" của ông nghĩ thế nào khi đọc tài liệu này?
Tướng Tôn Thất Đính, vị Tư Lệnh các lực lượng đảo chánh, có lẽ do đọc tài liệu này mà ông đã nhìn nhận cuộc "hành quân 1.11.1963" là "một thảm bại lớn lao đối với lịch sử". . . "Ai cũng đều thất bại kể cả Hoa Kỳ là nước đồng minh, khi kẻ thù từ quốc tế đến quốc nội bắt đầu vỗ tay cho tương lai chiến thắng của chủ nghĩa Cộng Sản". (20 Năm Binh Nghiệp. Trang 455) Một tấm gương can đảm.
Việc Tướng Đôn chọn đơn vị bầu cử Quảng Ngãi, lãnh địa của liên khu ủy khu 5 Việt Cộng để ra ứng cử dân biểu và đã đắc cử, liệu có phải do sự sắp xếp của nữ gián điệp Kim Cương không? Có nhiều phần chắc là phải. Vì vào Hạ Viện với cấp bậc và chức vụ ông đã từng nắm giữ trong suốt cuộc đời binh nghiệp của ông, chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa làm sao lọt khỏi tay ông? Hơn nữa, ông đã nắm chức vụ này khi ở Thượng Viện. Chức vụ này ai cũng biết, là một trong những nơi mà các tổ chức tình báo và gián điệp của địch luôn luôn tận tình chiếu cố.
Tưởng cũng nên nói qua, tại miền Nam, thời Đệ II Cộng Hòa, Hạ Viện có hai vị Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Phòng là cựu Trung Tướng Trần Văn Đôn, có liên hệ rất khắm khít với một nữ gián điệp của đối phương như vừa nói trên. Và vị kia là Đại Tá Đinh văn Đệ, một cán bộ Cộng Sản nằm vùng.
Như vậy, sách lược Quốc Phòng của miền Nam còn chút gì là "MẬT" đối với đối phương nữa không?
Một sự kiện khác nữa mà theo tôi, cũng là một yếu tố giúp Tướng Đôn hăng hái tổ chức đảo chánh Tổng Thống Diệm. Đó là sự kiện ông Hội Trưởng Hội Tiên Thiên Thánh Giáo Huế, truyền lệnh thánh chỉ thị cho Tướng Đôn phải đảo chánh chế độ Ngô Đình Diệm như đã được đề cập trong phần "Tại sao biến động cờ Phật Giáo được khởi động tại Huế". Vì ông tin rằng đó là sứ mạng được thần thánh trao phó.
Tóm lại, lý do khiến Tướng Trần Văn Đôn đã liều lĩnh tổ chức cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 là vì:
- Trên đầu ông có vị Thánh của Tiên Thiên Thánh Giáo.
- Bên phải ông người tình, gián điệp của Cộng Sản.
- Bên trái ông có ông bạn Lucien Conein, gián điệp người đồng minh vĩ đại Hoa Kỳ.
Những lý do đẹp đẽ và đơn giản như ông nói với tôi nếu có, cũng chỉ là những lý do phụ, rất phụ mà thôi.
Về tâm trạng ân hận về việc Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu bị sát hại của Tướng Đôn, tôi không biết mức độ thật thà của ông trong lời nói này đạt được đến mức nào. Vì trong hồi ký Việt Nam Nhân Chứng của ông, ông lại đã cho rằng, quyết định giết Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu là một quyết định khôn ngoan.
Có lẽ khi viết hồi ký, Tướng Đôn đã có một nhận định khác hẳn với tâm trạng được ông thổ lộ với tôi trước kia, vì khi ấy ông đã nhận ra sự chính xác của lời nhận xét được cựu Tổng Thống Trần Văn Hương, khi đang làm Thủ Tướng, nói với một Nhà Ngoại Giao Anh:
"Các Tướng lãnh hàng đầu vì sợ chết, họ đã quyết định ám sát Tổng Thống Diệm và em ông. Các Tướng lãnh biết quá rõ rằng họ bất tài, không có đạo đức và kể cả không được dân chúng hậu thuẫn, họ không thể ngăn cản một cuộc trở về ngoạn mục của Tổng Thống và ông Nhu nếu hai ông còn sống". (Our Vietnam Nightmare. Trang 215)
TRUNG TƯỚNG TÔN THẤT ĐÍNH
Khi về phục vụ tại Tiểu Đoàn 7, qua số anh em binh sĩ được đưa từ Quảng Bình vào để thành lập Tiểu Đoàn này, tôi đã được nghe danh Đại Úy Tôn Thất Đính, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 12 tại Quảng Bình. Một sĩ quan trẻ, lanh lợi, nhưng tính tình thì nóng như Trương Phi.
Khi ông về làm Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh được ít lâu, sau vụ đụng độ với Thiếu Tá Võ Văn Cảnh Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 Sư Đoàn I, trong dịp tiếp đón Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Trần Trung Dung tại Trung Đoàn này. Buổi chiều ông đến kể lại với tôi diễn tiến sự việc và cho biết ông sẽ phạt ông Trung Đoàn Trưởng này. Tôi thấy nhận xét của anh em Binh Sĩ về tính nóng nảy của ông tôi được nghe khi ở Tiểu Đoàn 7, đúng thật. Cũng may, suốt thời gian ông chỉ huy Sư Đoàn 1, ngoài vụ Thiếu Tá Cảnh, không xảy ra vụ đụng độ nào khác giữa ông và anh em Quân Nhân trong Sư Đoàn nữa.
Vì nóng nảy, nhiều tự ái và háo thắng, nên lúc nào ông cũng muốn, bằng mọi cách, vượt lên trên tất cả bạn bè. Từ tâm trạng đó, hình như ông luôn luôn bị sự thèm khát chức tước và địa vị dày vò mà không giấu giếm được.
Sau khi Đại Tá Trần Ngọc Tám được vinh thăng Thiếu Tướng, ông đã tỏ ra bực bội, bất mãn gần như công khai. Trong thời gian này, tất cả những ai có dịp tiếp xúc với ông đều nhận thấy thái độ ấy của ông. Ông Ngô Đình Cẩn biết tình trạng này, một đôi lần ông đã định can thiệp cho ông Đính, nhưng ông còn ngại vì thấy ông Đính "tính tình còn con nít" quá. Nhưng cuối cùng, dịp may của ông Đính cũng đã đến.
Nếu tôi nhớ không lầm thì giữa năm 1957, Tổng Thống Diệm quyết định mở con đường chiến lược xuyên sơn từ Lăng Minh Mạng lên đến vùng Ashao-Aluoi, giáp với biên giới Lào. Một địa điểm chiến lược mà sau này đã xảy ra những trận đụng độ ác liệt từng gây chấn động dư luận Việt-Mỹ, giữa quân đội Cộng Sản Bắc Việt và quân đội Mỹ. Việc thực hiện con đường được giao cho Sư Đoàn 1 Bộ Binh do Đại Tá Tôn Thất Đính, đảm trách.
Cuối mùa Hè năm 1958, công trình thực hiện con đường hoàn tất, Tổng Thống ra thị sát và khánh thành. Buổi chiều, từ Ashao-Aluoi trở về, ông đã đi thẳng xuống nhà nghỉ của ông Cẩn ở Thuận An.
Chiều hôm ấy tôi xuống trình công việc với ông Cẩn, ông bảo tôi vào phụ ông sắp đặt lại căn phòng của ông để Tổng Thống nghỉ qua đêm. Trong lúc chúng tôi đang dọn dẹp trong phòng, thì Tổng Thống về đến. Đứng trước cửa phòng, ông tươi cười hỏi ông Cẩn:
- Ở như ri thì. . . tiêu, tiểu vô mô?
- Dạ thưa anh có chứ ạ!
Và ông Cẩn đi ra hướng dẫn Tổng Thống vào nhà vệ sinh, trong khi đó tôi tiếp tục dọn trong phòng. Lúc ông trở lại, tôi đề nghị với ông:
- Bữa nay ông Cụ vui quá. Chắc con đường Sư Đoàn 1 làm, ông Cụ vừa ý lắm. Cậu xin cho ông Đính lên Tướng cho rồi. Để ông bất mãn nói lung tung hoài, bất lợi đối với anh em ở dưới.
- Ừ! Chắc ông Cụ vừa ý về con đường ấy lắm. Để xin cho hắn cho rồi.
Khi Tổng Thống trở ra, ông Cẩn hướng dẫn ông đi coi quanh nhà. Vừa lúc phái đoàn tháp tùng Tổng Thống gồm một số vị Bộ Trưởng, Đại Tướng Lê Văn Tỵ, Trung Tướng Trần Văn Đôn, vào tới phòng khách. Theo Tổng Thống ra phòng khách rồi trở lui, ông Cẩn nói với tôi:
- Được rồi! Ông Cụ chấp thuận cho Đính lên Tướng rồi. Sáng mai gắn lon, chú về cho hắn biết cho hắn mừng.
Trong bữa tiệc anh em Sư Đoàn I khoảng đãi mừng ông vinh thăng, ông đã tuyên bố một câu làm cho anh em rất hài lòng. Ông nói: "Cặp sao tôi nhận được bữa nay là do công lao của tất cả anh em, chứ không phải của riêng mình tôi".
Ít tháng sau, đầu năm 1959, ông bàn giao Sư Đoàn cho Đại Tá Nguyễn Văn Chuân và lên Cao Nguyên nhận quyền Tư Lệnh Quân Đoàn II Vùng II Chiến Thuật, thay thế Tướng Trần Ngọc Tám. Khoảng giữa năm 1959, ông Cẩn sai tôi lên thăm ông tại Pleiku. Sau lần này, tôi chỉ có dịp gặp lại ông mỗi lần ông ra Huế và đến chào thăm ông Cẩn. Cho đến bốn ngày sau khi xảy ra cuộc binh biến 11.11.1960, Tướng Đính từ Sài Gòn ra Huế. Buổi tối Đại Úy Ngô Văn Hùng Giám Đốc Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng mời tôi ăn cơm với ông tại văn phòng của anh. Cơm xong, khoảng 10 giờ, tôi cáo từ ra về, ông cùng đi với tôi. Về nhà tôi, ông ngồi nói chuyện đến hơn 1 giờ sáng, uống thêm gần hết chai rượu Johnnie Walker. Kết ý câu chuyện dài mấy tiếng đồng hồ, ông chỉ trích cách làm việc thiếu chặt chẽ, tắc trách của Bộ Tổng Tham Mưu, và kết luận:
"Ba Đính mà làm Tổng Tham Mưu Trưởng thì sức mấy mà đứa mô mần đảo chánh được".
Từ nhà tôi ông về nghỉ ở nhà vãng lai cấp Tướng, và trong đêm đó xảy ra vụ xô xát giữa ông và Tướng Tố như tôi đã thuận lại ở phần trên.
Đến cuộc đảo chánh 1.11.1963, việc ông tham gia cuộc đảo chánh này, ngoài phần ông hé hở với tôi như đã được kể lại trong mục "Tiền Đảo Chánh" tôi được cựu Trung Tá Nguyễn Duy Nghệ, khi ấy là Đại Úy Tùy Viên của ông, cho biết một số sự kiện như sau:
Trước ngày đảo chánh chừng một tuần, Tướng Đính cùng với Tướng Đôn từ Sài Gòn ra Quân Đoàn I. Đến Đà Nẵng Tướng Đôn ở lại gặp Tướng Trí, Tướng Đính bay ra Huế gặp ông Cẩn.
Cùng ngày, trên đường về lại Sài Gòn, ghé Đà Nẵng đón Tướng Đôn và Đại Tá Hồ Tấn Quyền Tư Lệnh Hải Quân, ghé Đà Lạt gặp Tướng Khánh tại sân bay Liên Khương.
Đêm trước ngày đảo chánh (30. 11), Tướng Đính thao thức suốt đêm, ông gọi tôi (Đại Úy Nghệ) vào hỏi:
- Kế hoạch toa đã biết, toa nghĩ moa có nên làm không?
- Theo tinh thần Trung Quân, Ái Quốc, xin Thiếu Tướng xét lại. Tôi không dám có ý kiến. Đại Úy Nghệ thưa lại.
- Nhưng moa làm chuyện này là để cứu ông Cụ, với sự đồng ý của ông Cậu.
Đêm 1. 11 Tướng Đính băn khoăn lo lắng cả đêm. Ông ra lệnh cho Đại Tá Thiệu, Tư Lệnh Sư Đoàn 5, phải tìm cho được hai "objets précieux" (báu vật). Đến sáng, khi được Trung Tướng Đôn yêu cầu đi đón Tổng Thống và ông Nhu, ông cho lệnh sửa soạn xe Beaulieu của ông để đi đón, nhưng lấy cớ bận, cử Đại Tá Lâm Văn Phát thay mặt. Ông Phát cũng sợ không dám đi. Vừa lúc ấy, Tướng Đôn điện thoại cho ông:
- Thôi toa khỏi đi. Trên này cử phái đoàn đi. Phái đoàn sẽ đến gặp toa trước khi đi.
Khi Tướng Xuân dẫn đoàn xe đi rồi, ông Đính gắn lon Tướng cho ba Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu, Lâm Văn Phát và Nguyễn Hữu Có. Chừng 45 phút sau, khi các ông còn đang vui vẻ thì Tướng Đôn điện thoại cho Tướng Đính. Nghe điện thoại, Tướng Đính ngạc nhiên nói lớn:
- Có chuyện đó sao?
Rồi ông gọi ông Thiệu.
- Thiệu, toa nghe này!
Cầm điện thoại nghe Tướng Đôn nói, Tướng Thiệu (mới được ông Đính gắn lon) sửng sốt hỏi:
- Hai ông tự tử à?
Tướng Đính tỏ ra hết sức buồn bực, ông cho lệnh tất cả giải tán rồi ra xe lên thẳng Bộ Tổng Tham Mưu.
Khi đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông Đính vừa xuống xe, ông Mậu đứng đâu quanh đó chạy ra nói:
- Hai ông nằm trong xe ở bên kia, Thiếu Tướng qua coi một chút.
Với vẻ giận dữ, Tướng Đính vung cây gậy chỉ huy đang cầm trong tay suýt trúng mặt ông Mậu.
- Coi răng được mà coi.
Nói rồi, bỏ mặc ông Mậu đứng đó, ông đi thẳng lên phòng họp trong tòa nhà chính.
Buổi chiều, tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, ông được Bưu Điện Sài Gòn mời 8 giờ sáng hôm sau đến nhà Bưu Điện, có Bà Ngô Đình Nhu từ Mỹ muốn nói chuyện với ông. Ông không chịu đến nhà Bưu Điện và yêu cầu Nha Bưu Điện nội trong đêm, cho thiết lập một đường dây đặc biệt từ nhà Bưu Điện Sài Gòn đến Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, trong Trại Lê Văn Duyệt để ông sử dụng.
Sáng hôm sau, đúng giờ Bà Ngô Đình Nhu từ Mỹ gọi về. Bà hỏi ông:
- Anh Đính! Ai cho phép anh làm như vậy?
- Thưa bà, không phải tôi.
- Không phải anh thì tôi không cần nói chuyện với anh! Cuộc điện đàm chấm dứt.
Từ những sự kiện trên đây, có thể, việc sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu đã xảy ra ngoài ý muốn của ba Tướng Đôn, Đính, Khiêm như Tướng Đôn nói với tôi. Ít nữa là trong dự mưu. Nó cũng giúp tôi hiểu được thái độ bình tĩnh của ông Cẩn, khi được tôi trình lại lời báo cáo của Tướng Đính, lúc gần 12 giờ đêm 1. 11: "Trong này anh em đã thi hành lệnh của ông Cố Vấn". Nhưng nó lại đem đến cho tôi một thắc mắc lớn khác: Tướng Đính đã theo lệnh ai hay tại sao, và ông lý luận thế nào để thuyết phục ông Cẩn mà được ông Cẩn đồng ý để ông làm đảo chánh "cứu ông Cụ"? Và có thật sự là có việc ấy không? Hay chỉ là vì ông Cẩn đã được biết có kế hoạch Bravo I. Bravo II?
Dù nói cách nào đi nữa để tránh né trách nhiệm đối với cái chết của Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu. Nhưng là những Tướng lãnh tự cho mình là mưu trí, tài ba thao lược, trong khi đang nắm trọn Quyền và Lực trong tay, mà lại để xảy ra một sai phạm quá lớn đối với dự mưu, với lương tâm và sự liêm sỉ của mình một cách dễ dàng như thế, thì người ta khó có thể giải thích cách nào khác hơn, là phải nhìn nhận rằng, nhận xét của Cố Tổng Thống Trần Văn Hương về các Tướng làm cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 vừa được trích dẫn ở trên, quả thật là chính xác.
Cuốn tự truyện 20 Năm Binh Nghiệp được Tướng Tôn Thất Đính viết sau 32 năm (66-98) ông rời quân ngũ. Vốn là một "con sâu" rượu, điều này tất cả những ai đã quen biết ông đều rõ. Có lẽ rượu đã tàn phá trí nhớ của ông khá nhiều, nên nhiều chuyện được ông tự thuật, ngoài những điều ông nói về Đảng và Quân Ủy Cần Lao tôi sẽ minh xác trong Chương nói Đảng Cần Lao, không được đúng lắm theo những gì tôi biết.
Tuy nhiên, tôi cũng phải nhìn nhận rằng, trong số các vị Tướng đã viết hồi ký nói về vụ đảo chánh ngày 1.11.1963, về anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Tướng Tôn Thất Đính là người còn có ít nhiều lương tri, hành văn tương đối đàng hoàng và can đảm, dám thẳng thắn nhìn nhận chính biến này không phải là một thành công, mà là một thảm bại lớn lao đối với lịch sử và đã góp phần đưa miền Nam đến cuộc đại bại sau cùng. (20 Năm binh Nghiệp. Trang 455)
Theo hiểu biết của tôi, với cá nhân Tướng Đính, việc quyết định tham gia vào âm mưu đảo chánh ngày 1.11.1963 là hành động dại dột nhất của đời ông. Nói cách khác, Tướng Đính là người dại dột và bị mất mát nhiều nhất khi tham gia cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963. Nó đã làm cho mộng ước trong suốt cuộc đời binh nghiệp của ông: Chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đang ở trong tầm tay, phút chốc vuột mất và hoàn toàn bị tiêu tan. Nó đã làm cho ông mất cả danh dự, làm tắt lịm tất cả mọi "hào quang" ông đã tạo được trong suốt "20 năm binh nghiệp", đưa ông vào một cuộc sống càng ngày càng tối tăm hơn. Và chắc chắn tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến hết đời ông. Phải chăng đó là một hình phạt?
TƯỚNG TRẦN THIỆN KHIÊM
Tôi không biết gì nhiều về Tướng Trần Thiện Khiêm người được mệnh danh "ông ngậm miệng ăn tiền". Từ biệt danh này, người ta dễ dàng nhận ra ông là một mẫu người khá hiếm thấy trong giới người Nam.
Lần đầu tôi được gặp ông là vào năm 1953, khi ấy ông mang cấp bậc Đại Úy, ở trong "ê kíp", "Có-Lắm-Thiệu-Khiêm" từ miền Nam, cùng với Đại Tá Trương Văn Xương ra thay thế Đại Tá Nguyễn Ngọc Lễ, và "ê kíp" Bộ Tham Mưu Việt Binh Đoàn của ông này đi ra Bắc, Nhưng chỉ là một cuộc gặp thoáng qua do một người bạn tôi giới thiệu. Lần thứ hai tôi gặp ông là dịp sau cuộc binh biến 11.11.1960, tôi đã kể trong mục nói về cuộc binh biến này ở Chương I.
Khi xảy ra cuộc binh biến 11.11.1960, ông Khiêm đang là Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 21 kiêm quyền Tư Lệnh Quân Khu V tại Cần Thơ. Ông đã đem Sư Đoàn 21 về chống đảo chánh, trong tinh thần "đảng viên cứu giá Lãnh Tụ".
Theo ông Huỳnh Văn Lang, Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, Bí Thư Liên Kỳ Bộ Cần Lao Nam-Bắc Việt, Tướng Khiên được ông Lang kết nạp vào đảng Cần Lao từ trước giữa năm 1955. Khi ấy ông còn là Trung Tá, không có chức vụ gì, đang đợi ra Tòa Án vì là chủ tịch đảng Con Ó của Tướng Nguyễn Văn Hinh, hoạt động chống lại Chính Phủ. Trung Tá Khiêm sinh hoạt trong Tiểu Tổ Quân Sự, còn gọi là Hội Nghiên Cứu Quân Sự của Liên Kỳ, cùng với Đại Tá Nguyễn Quang Sanh, Chỉ Huy Trưởng Hiến Binh, Trung Tá Nguyễn Hữu Phước, Tổng Nha Bảo An, Thiếu Tá Nguyễn Văn Hiệu, Sở An Ninh Bộ Nội Vụ, và sau có thêm Thiếu Tá Phạm Ngọc Thảo.
Liên Kỳ Bộ Cần Lao do ông Lang phụ trách đã giải tán từ cuối năm 1957. Nhưng khi đem quân về chống đảo chánh, Đại Tá Khiêm đã tuyên bố, ông hành động với tư cách đảng viên Cần Lao Liên Kỳ. Sau đó trong một dịp gặp lại, ông Lang hỏi ông Khiêm: Liên Kỳ giải tán lâu rồi, anh lấy danh nghĩa ai vậy? Đại Tá Khiêm xác định, ông quên việc Liên Kỳ đã giải tán, nhưng Cần Lao thì còn đúng.
Sau khi lập được thành tích này, với tính tình hòa nhã, kín miệng, tư cách đứng đắn, không bị tai tiếng gì về tiền bạc, trai gái, ông đã được Tổng Thống Diệm, ông Nhu và ông Cẩn rất quý mến và tin tưởng. Vì vậy mà có dư luận nói rằng, ông đã vào đạo Công Giáo và được Tổng Thống Diệm nhận làm con nuôi. Theo tôi được biết, quả thật đã có lần ông ngỏ ý muốn được học và theo đạo Công Giáo. Nhưng ông Ngô Đình Nhu, người cực lực chống đối việc các viên chức cao cấp trong chính quyền và Quân Đội thời bấy giờ xin vào đạo Công Giáo, đã khuyên ông bỏ ý định ấy. Một điểm đáng ghi là, Tướng Khiêm không ra Huế lần nào, nhưng có cho bà Khiêm ra nhờ phu nhân Tướng Đính đưa đến văn phòng Cố Vấn Chỉ Đạo xin vào chào ông Cẩn. Tiếp hai bà, ông Cẩn đã tỏ rõ lòng quý mến và tin tưởng ở các đức lang quân của các bà, qua những món quà đặc sản địa phương, đúng hơn là đặc sản gia đình, gửi tặng các ông.
Nhờ ở tính ít nói, kín miệng, với nét mặt khó tìm do tư tưởng, và cách làm việc hết sức cẩn trọng của ông, Tướng Khiêm đã không để hở một mảy may nào về mưu đồ đảo chánh ngày 1.11.1963. Qua Trung Tá Phạm Thứ Đường, tôi được biết, cho đến trước ngày cuộc đảo chánh bùng nổ chừng một tuần lễ, danh sách số Tướng lãnh có ý đồ mưu phản, Dinh Gia Long có được, vẫn không thấy có tên Tướng Trần Thiện Khiêm. Đến nỗi, theo ông Dương Văn Hiếu cho tôi biết, một kế hoạch chống đảo chánh của Lực Lượng Cảnh Sát Đặc Biệt đệ trình Tổng Thống Diệm, đã được Tổng Thống giao cho Tướng Khiêm nghiên cứu để cung cấp quân số. Và cho mãi đến ngày miền Nam sụp đổ, người ta vẫn không nghe thấy ai nói đến Tướng Khiêm đã đóng vai trò gì trong cuộc chính biến này. Phải đợi cho đến năm 1994, khi cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, Sĩ Quan Chánh Văn Phòng của ông cho ra mắt bà con cuốn hồi ký Đôi Dòng Ghi Nhớ, người ta mới bật ngửa: Chính Tướng Trần Thiện Khiêm mới là người nắm giữ vai trò "chủ chốt" trong cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cũng vì sự lầm lẫn về con người Tướng Khiêm một cách quá ngây thơ mà tôi đã gặp ông lần thứ ba hồi giữa năm 1968, cũng tại nhà riêng của ông trong Bộ Tổng Tham Mưu, để làm nhịp cầu đưa ông ngồi vào chiếc ghế Tổng Trưởng Nội Vụ. Khi ấy ông đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Đài Loan, còn rất e ngại đối với những thế lực chống đối tại Việt Nam. Và rồi từ Bộ Nội Vụ, ông tiến vào làm chủ nhân ông tòa nhà trước Sở Thú Sài Gòn (Phủ Thủ Tướng) cho đến đầu tháng 4. 1975. Thời gian ông còn ngồi ở Bộ Nội Vụ, vì công việc, tôi gặp ông lần thứ tư, được ông tiếp rất niềm nở và lịch sự. Nhưng thấy ông quá dè dặt và thận trọng, nên từ đó không bao giờ tôi gặp lại ông nữa.
Theo tiết lộ của cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, một thời gian trước ngày 1.11.1963, Tướng Khiêm đã có những cuộc tiếp xúc hết sức kín đáo, với một nhân vật bí mật nào đó. Việc tiến hành cuộc tiếp xúc được sắp đặt thật cẩn trọng. Từ nhà ra đi, có hộ tống, hộ vệ đầy đủ. Đến giữa chặng đường, ông được xe lạ chờ sẵn. Từ đó, không hộ tống, không hộ vệ, một mình ông dùng xe lạ đến nơi hẹn.
Điều đó cho thấy Tướng Khiêm là người nắm giữ những bí mật then chốt của cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963. Mong rằng cựu Đại Tướng Trần Thiện Khiêm, không giữ mãi tính cố hữu "ngậm miệng" đem theo những bí mật ấy xuống mồ. Mà Đại Tướng sẽ cho bạch hóa một cách thật đầy đủ, thật trung thực những bí mật ấy, để các thế hệ con cháu có được những bài học, những kinh nghiệm quý giá, giúp họ trong trách nhiệm phục vụ đất nước và dân tộc sau này.
TƯỚNG NGUYỄN KHÁNH
Tướng Nguyễn Khánh được một số anh em ở Huế tặng cho biệt danh là "Ông Tá lỳ".
Tôi không nhớ rõ ngày tháng, nhưng khoảng thượng bán niên năm 1956, sau khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh tại Huế, Đại Tá Nguyễn Khánh đến xin được vào chào ông Cẩn. Không biết vì muốn thử thách hay vì lý do nào khác mà ông Cẩn. Không biết vì muốn thử thách hay vì lý do nào khác mà ông Cẩn không chịu tiếp ông. Đại Tá Khánh liền áp dụng chính sách "lỳ". Từ hôm sau, mỗi buổi sáng, đầu giờ làm việc, với quân phục chỉnh tề, ông tự lái xe đến đậu ngay trước cổng nhà ông Cẩn. Sau khi yêu cầu nhân viên gác cổng trình ông Cẩn xin cho ông gặp, ông trở vào ngồi trong xe đợi hàng tiếng đồng hồ. Không được gặp, sáng hôm sau ông lại đến. Và cứ như vậy ba bốn buổi sáng liền. Cuối cùng thì ông cũng đã được ông Cẩn tiếp.
Khi xảy ra cuộc binh biến 11.11.1960, Tướng Khánh trong chức vụ Tổng Thơ Ký Thường Trực Quốc Phòng, đã nhanh nhẹn vào ngay Dinh Độc Lập. Từ trong Dinh ông đã điều binh khiển tướng, chống lại quân đảo chánh. Từ đó, cũng như Tướng Trần Thiện Khiêm, ông được Tổng Thống Diệm cũng như ông Nhu, ông Cẩn hoàn toàn tin tưởng và quý mến.
Trong cuộc đảo chánh 1.11.1963, như tôi đã thuận lại trong mục "Tiền Đảo Chánh", sáng ngày 30 tháng 10 ông còn ra chúc mừng sinh nhật ông Cẩn. Tôi không được biết nội dung cuộc gặp gỡ. Nhưng qua thái độ đặc biệt chưa từng có của ông Cẩn đối với ông, là sau khi ông ra về, ông Cẩn sai tôi đem một chai Champange và một cặp tré qua nhà Tướng Đỗ Cao Trí (Tướng Khánh dùng cơm trưa với Tướng Trí trước khi về lại Pleiku) với lời nhắn: "Ông Cậu biếu hai Thiếu Tướng dùng cho vui". Tôi nghĩ, hẳn đã có phải có câu chuyện gì đặc biệt trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa ông Cẩn và ông sáng hôm ấy.
Ngày 1.11.1963, khi tiếng súng đảo chánh nổ tại Sài gòn, Tướng Khánh đã tập họp Bộ Tham Mưu và các Đơn Vị Trưởng của Quân Đoàn II, ông tuyên bố:
"Sài Gòn đang có biến. Thủy Quân Lục Chiến Đài Phát Thanh, đang bao vây Dinh Gia Long, nội đêm nay sẽ dứt điểm. Tôi tuyên bố tình trạng khẩn trương trong toàn lãnh thổ. Kể từ giờ phút này, chỉ có cấp chỉ huy duy nhất là tôi, cấm không ai được liên lạc về Sài Gòn. Chúng ta là những thanh niên của thế hệ, chúng ta phải làm gì để sau này khỏi hổ thẹn với con cháu chúng ta".
Sau đó ông lập một Bộ Tham Mưu nhẹ, được tăng cường Liên Đoàn 3 Thiết Giáp của Thiếu Tá Lương Bùi Tùng, vào đóng trong Đồn Điền Trà Catecka.
Trong cuộc đảo chánh lần này, bốn vị Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, theo cựu Đại Tá Phạm Bá Hoa, trừ Tướng Đính Tư Lệnh Quân Đoàn III đã ở trong thành phần nhóm Tướng lãnh đảo chánh. Tướng Trí Tư Lệnh Quân Đoàn I, gửi công điện ủng hộ. Và Tướng Huỳnh Văn Cao là người cuối cùng lên tiếng ủng hộ đảo chánh. Sau khi được tin Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu đã bị sát hại, Tướng Khánh nói với các Sĩ Quan trong Bộ Tham Mưu:
"Anh em ai khóc, tiếc thương Cụ Diệm thì vào phòng đóng cửa lại mà khóc. Phần tôi, không còn cách nào khác hơn là phải gởi điện về ủng hộ nhóm Dương Văn Minh".
Cựu Thiếu Tá Đặng Đức Thắng, hiện định cư tại Thành Phố Pacoima, Los Angeles, California, một Sĩ Quan trong Bộ Tham Mưu Quân Đoàn II khi ấy biết rõ chuyện này.
Tôi có nghe một nguồn tin nói rằng, trong các kế hoạch chống lại một cuộc đảo chánh được ngoại bang hỗ trợ, ông Ngô Đình Nhu có sắp đặt với Tướng Khánh, sẽ dùng Quân Đoàn II làm điểm xuất phát của lực lượng chống đảo chánh. Kế hoạch dự phòng trường hợp các lực lượng trung thành với Tổng Thống Diệm tại Sài Gòn bị khống chế, Tổng Thống sẽ được đưa đến một nơi an toàn không xa Sài Gòn. Ông Nhu sẽ lên Pleiku và cùng Tướng Khánh chỉ huy cuộc phản công.
Thái độ, hành động và những lời tuyên bố của Tướng Khánh vừa được thuận lại trên đây, cộng với sự kiện ngày 29. 10 ông Cố Vấn Nhu đột ngột gọi Sĩ Quan Tùy Viên, Đại Úy Nguyễn Ngọc Hạp vào cho biết, biến động sẽ xảy ra trong một hai ngày nữa. Ông sai Đại Úy Hạp đưa ba người con của ông lên Đà Lạt ngay trong ngày hôm ấy. Những yếu tố này làm cho nguồn tin trên đây tăng thêm độ chính xác. Tuy nhiên, đến nay chỉ còn một mình Tướng Khánh là người biết đích xác có kế hoạch ấy hay không.
Cho dù kế hoạch dùng Quân Đoàn II làm điểm phản công chống đảo chánh có hay không, cử chỉ đối xử với Tướng Khánh một cách đặc biệt khác thường của ông Cẩn ngày 30. 10. 1963. Và thái độ của Tướng Khánh trong thời gian diễn biến cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963, cho thấy Tướng Khánh không hoàn toàn tán thành một cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Nhưng ông đã áp dụng chính sách bắt cá hai tay, để bên nào ăn thì ông cũng có phần. Hoặc là ông đã được ai đó nói nhỏ cho biết hoạt cảnh ngày 1. 11 sẽ còn màn hai nữa. Và trong bố cục của màn hai, ông sẽ là một vai chính, như Tướng Khiêm tiết lộ với ba Sĩ Quan: Đại Tá Nguyễn Hữu Phước, Trung Tá Nguyễn Văn Phước và Trung Tá Nguyễn Đức Xích, khi ba Sĩ Quan này đến cám ơn Tướng Khiêm vì ông đã cứu họ khỏi tay Tướng Mai Hữu Xuân. Tướng Khiêm nói:
"Thôi chuyện đã qua rồi, thương tiếc cũng không làm gì cho ông "Cụ", ông Nhu được nữa. Nhưng còn nữa, chưa hết đâu". (Nhân Chứng Một Chế Độ. Tập 3. Trang 261)
Sau khi đã cùng với Tướng Trần Thiện Khiêm, loại được các "anh hùng" ngày 1.11.1963, nắm trọn quyền hành trong tay. Tướng Khánh đã áp dụng một chính sách có thể gọi được là "chính sách chong chóng" gió chiều nào che chiều ấy, nhằm bảo vệ địa vị và quyền lực. Chính sách này đã khiến ông dùng quyền lực sửa đổi luật pháp để giết cho được ông Ngô Đình Cẩn. Một hành động mà tôi chắc ông không hề nghĩ tới trong buổi trưa ngày 30. 10. 1963, khi cùng với Tướng Đỗ Cao Trí, uống chai champange với đồ nhậu rất bắt mắt là hai con tré do chính người nhà ông Cẩn làm. Chỉ vì ông nghĩ rằng xác ông Cẩn sẽ là cái bệ vững chắc cho chiếc ngai quyền lực của ông. Chính sách này cũng đã khiến ông, sau 6 tháng nắm trọn quyền hành, thay đổi cách nhìn đối với Tướng Trần Thiện Khiêm. Từ một người bạn đồng thuyền, Tướng Khiêm đã trở thành mối đe dọa nguy hiểm cho quyền lực của ông. Và Tướng Khiêm đã bị buộc phải ra ngoại quốc sống đời lưu vong suốt thời gian cầm quyền còn lại của Tướng Khánh. Mặc dù không phải một mình Tướng Khánh buộc được Tướng Khiêm phải rời quê hương.
Cũng cần nói thêm một điều khá khôi hài Tướng Khánh đã làm theo chính sách này. Đó là ông đã ra một sắc lệnh hạ cấp bậc, giải nhiệm, các công chức mà ông gọi là: "Đã được thăng thưởng quá lạm trong thời Ngô Triều". Trong khi việc thăng thưởng dưới Triều của ông, nhất là trong Quân Đội, thì không biết dùng danh từ "quá lạm", đã diễn tả được đầy đủ "tình trạng" tăng thưởng của thời kỳ này chưa?
Cuối cùng thì chính ông cũng trở thành nạn nhân của cái "chính sách chong chóng" của ông. Ông phải rời bỏ quyền lực, xa lìa quê hương, để sống cuộc đời lưu vong từ đầu năm 1965 cho đến ngày nay.
Âu đây cũng là một bài học quý cho những ai toan tính xây dựng tình liên kết trên nền tảng quyền lợi cá nhân hoặc phe phái.
TƯỚNG ĐỖ MẬU
Trong số những người chủ mưu cuộc đảo chánh 1.11.1963, cho đến nay, Tướng Đỗ Mậu là người nổi tiếng nhất, nhờ cuốn hồi ký chính trị Việt Nam Máu Lửa Quê hương Tôi của ông. Một cuốn hồi ký được nhà văn Nguyễn Đạt Thịnh diễn tả một cách rất chính xác là "Một lời chửi rủa dài cả ngàn trang".
Do cái "lời chửi rủa dài cả ngàn trang" này, mà những người đã từng quen biết, cộng tác với ông trong nhiều thời kỳ, hiểu biết nhiều về con người ông, đã tốn khá nhiều giấy mực nói về ông và công trình "đặc sắc" này của ông. Đúng hơn, là của nhóm anh em của ông, như ông thú nhận với ông Võ Như Nguyện. Vì vậy, tôi nghĩ, ngày nay không còn ai không biết lai lịch Tướng Mậu xuất thân từ ngạch lính khô xanh dưới thời Pháp thuộc. Cuối thập niên 30, ở ngạch này, ông phục vụ tại Tòa Khâm Sứ Pháp ở Huế, trong khi ông Võ Như Nguyện là Tham Sự Hành Chánh làm việc tại đây. Sau này cả hai ông, kẻ trước người sau, cùng theo phò ông Ngô Đình Diệm.
Dịp húy nhật lần thứ 25 Tổng Thống Ngô Đình Diệm, báo Văn Nghệ Tiền Phong đã đăng bài phỏng vấn Giáo Sư Võ Như Nguyện, do ông Từ Nguyên thực hiện. Khi được hỏi về cảm tưởng đối với cuốn hồi ký của Tướng Mậu, ông Nguyện trả lời:
"Cảm tưởng của tôi là sách ấy được bán chạy, đồng bào mua nhiều vì ai cũng muốn biết công cuộc thời Đệ I Cộng Hòa, do một tác giả sát cánh với Cụ Ngô từ năm 1942 đến 1963 kể lại, qua sự trung thành lẫn sự. . . phản bội".
Ông Nguyện cũng đưa ra một câu hỏi:
"Trong thời gian Cụ Ngô còn là Tổng Thống, họ biết là quá xấu xa như vậy, tại sao vẫn theo "ủng hộ"?
Năm 1996 được gặp ông Nguyện tại Mỹ, ông cho tôi biết, năm 1979, khi được ông Đỗ Mậu ngỏ ý muốn viết về Tổng Thống Diệm, ông đã khuyên nên đợi thêm một thời gian nữa. Nhưng khi về lại Pháp, ông nhận được thơ ông Mậu phân trần về việc nên viết cuốn hồi ký ấy. Ông Nguyện đã trả lời trong một thơ dài, và được ông Mậu phúc đáp hẹn sẽ cùng với nhóm anh em của ông viết cuốn thứ hai để bổ túc. Vì trong cuốn thứ nhất, ông Mậu đã cho in kèm các thư từ bạn bè gửi cho ông, nên ông Nguyện tỏ ý rất mong muốn của ông Mậu sẽ cho công bố đầy đủ bức thơ của ông trong cuốn hai. Nhưng cho đến nay điều mong muốn của ông Nguyện vẫn không được ông Mậu thỏa mãn.
Tướng Đỗ Mậu cùng với một số bạn đồng ngũ như cựu Đại Tá Phùng Ngọc Trưng, theo phò ông Ngô Đình Diệm từ năm 1942, khi đang phục vụ trong ngạch lính khố xanh.
Khi Việt Minh cướp được chính quyền, tháng 8. 1945, ông Mậu đã gia nhập "quân đội nhân dân" của Việt Minh.
Một viên chức công an Tỉnh Quảng Bình thời chính quyền quốc gia mới được thiết lập và cũng là đồng hương với Tướng Mậu, ông Phạm Tường, cho biết: Ông Đỗ Mậu người làng Thổ Ngọa, Huyện Quảng Trạch, Tỉnh Quảng Bình, là con một địa chủ, chứ không phải con nhà nghèo như ông nói. Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền, cha ông bị bắt, nhưng ít lâu sau được thả, khi ông về làm huyện đội trưởng dân quân Huyện Quảng Trạch.
Thời gian làm huyện đội trưởng dân quân, ông Mậu đã thâm lạm của huyện đội 10 tấn thóc và 7 triệu đồng (tiền Việt Nam). Bị giáng chức và chuyển sang làm trưởng một trại giam có tên là Trại Tranh ở Kim Lũ, thuộc Huyện Tuyên Hóa. Năm 1947, một dịp về thăm nhà, ông bị ông Nguyễn Rạng, người cùng làng, khi ấy là Bang Tá Huyện Quảng Trạch, bắt giải về Đồng Hới. Tại đây ông được tha, nhờ người em ruột của ông là Đỗ Toàn, trước là thượng sĩ khố xanh được Pháp dùng làm Quản Đốc nhà lao Đồng Hới bảo lãnh.
Danh từ "Đỗ Mậu" đã bị người dân vùng Duyên Hải Trung Phần, đặc biệt là tại Nha Trang, nói trại ra là "Đổ Máu". Vì khi ông được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bổ nhậm làm Chỉ Huy Phó, rồi Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Duyên Hải, ông đã áp dụng một đường lối quá cứng rắn đối với những đảng phái, lực lượng, chống lại Thủ Tướng Diệm lúc bấy giờ. Ông là một trong những người ủng hộ Thủ Tướng Diệm tích cực nhất trong thời kỳ ấy. Trong một Đại Hội Quân Cán Chính của Vùng Duyên Hải do ông tổ chức, ông đọc một diễn văn dài ca tụng tài đức, tinh thần cánh mạng, lòng yêu nước thương dân của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ông kể lại với thái độ rất hãnh diện là người được biết những chặng đường tranh đấu cho nền độc lập dân tộc, và hạnh phúc nhân dân của ông Diệm. Bài diễn văn có câu kết: "Khí thiêng sông núi đã hun đúc nên con người Ngô Đình Diệm". Bài diễn văn này sau được ông in thành tập nhỏ nhan đề Thân Thế và Sự Nghiệp Của Ngô Chí Sĩ, dùng làm tài liệu học tập cho các cơ sở Đảng và Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia tại Vùng Duyên Hải. Tài liệu cũng được gửi ra Huế bán cho các cơ sở Đảng và Phong Trào với giá 3 đồng một tập. Khi đề nghị tổ chức một Đại Hội Đảng Cần Lao Toàn Quân để thành lập Quân Ủy Cần Lao được ông Tổng Bí Thư Ngô Đình Nhu chấp thuận, ông Mậu đã hăng hái xung phong nhận trách nhiệm tổ chức Đại Hội này tại Bộ Chỉ Huy Phân Khu Duyên Hải của ông. Sau cuộc Đại Hội này, mỗi tham dự viên đều được ông tặng một tập Thân Thế và Sự Nghiệp Của Ngô Chí Sĩ.
Tôi được gặp ông Đỗ Mậu diện đối diện lần đầu và cũng là lần duy nhất suốt thời Đệ I Cộng Hòa là dịp ông ra chào ông Cẩn sau khi nhận chức Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội. Tôi được mời dự bữa tiệc đón chào ông, do Nha An Ninh Quân Đội Đệ II Quân Khu tổ chức, tại Khách sạn Du Centre. Qua tình đồng chí, tuy cảm thấy gần gũi và thân mật, nhưng trong giao dịch tôi chưa mấy quen biết ông, nên câu chuyện giữa ông và tôi trong suốt bữa ăn không có gì là tâm tình.
Sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, ngoài một lần tôi được ông gọi lên trình diện vì việc gặp và bắt tay chào hỏi anh Đặng Sỹ tại Phi Trường Tân Sơn Nhất, đã được kể lại trong mục "Tôi Thoát Hiểm", tôi còn tình cờ được gặp ông lần thứ hai tại nhà thầy bói Bích.
Ngày Phật Đản năm 1964, khoảng 9 giờ sáng, Thiếu Tá Ngô Văn Hùng đến đón tôi đi chơi. Sau khi đi vòng vòng mấy đường phố chính Sài Gòn-Chợ Lớn coi quang cảnh ngày lễ, chúng tôi đến nhà thầy bói Bích ở cuối Đường Pasteur, ngồi hút thuốc lào, nói chuyện tướng số. Chúng tôi đang mải mê nghe thầy bói Bích giải thích về tướng mạo của một vài vị "anh hùng 1. 11", thì thấy một xe jeep dừng trước cửa. Từ trên xe, Tướng Mậu mặc thường phục, áo sơ mi trắng ngắn tay, quần màu xám, chân đi dép, bước xuống. Ông bước vào nhà, anh Hùng và tôi đứng dậy chào. Anh Hùng là người thân thiết với ông. Ông bước tới, vừa bắt tay chúng tôi vừa nói với vẻ hết sức bực bội:
"Moa vừa đại diện chính phủ dự lễ Phật Đản ngoài Bến Bạch Đằng về. Chán quá đi! Đã không hơn mà còn thua ngày trước nữa. Biết như ri thì moa uổng công lạy thằng Đính hai lạy để mần đảo chánh mần chi".
Sau khi đi cải tạo về, khoảng năm 1990, một người bạn, anh N. V. H. (còn ở Việt Nam) đưa cho tôi cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của Tướng Đỗ Mậu và bảo tôi:
- Anh đọc xem ông Mậu nói có đúng không?
- Anh đọc chưa? Tôi hỏi.
- Đọc rồi.
- Anh thấy thế nào?
- Cứ như ông Mậu nói thì ông Diệm là người xấu xa nhất trần đời. Nhưng có một tội lớn nhất của ông Diệm lại không được ông Mậu nói tới?
- Tội gì?
- Tội ông đã dùng và tin những người như ông Đỗ Mậu chứ còn tội gì nữa!
Ngẫm nghĩ câu nói của anh bạn, tôi thấy thật thấm thía.
Cuốn sách được Việt Cộng in và cho lưu hành tại Việt Nam. Bìa sách in hình vẽ một người, đúng hơn, là một bộ xương có khuôn mặt giống như thần chết, ngồi cầm cây súng M16 chống ngược lên. Nội dung được cắt bỏ nhiều phần, nên cuốn sách chỉ có trên 600 trang. Những phần kết tội Tổng Thống Diệm diệt đối lập, đàn áp Phật Giáo và những điều bới mọc gia đình họ Ngô, được in lại đầy đủ.
Tại Mỹ, cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng, người quen biết ông Mậu từ khi còn ở Phân Khu Duyên Hải, khi mới cùng đơn vị di cư từ ngoài Bắc vào. Ông Ứng được ông Mậu rất tin tưởng và quý mến đưa về ngành An Ninh Quân Đội. Sau khi đọc cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của vị chỉ huy cũ của mình, trong một dịp gặp tôi, nhắc đến tại phẩm này, anh đã tỏ ra hết sức bất bình về nội dung cuốn sách mà anh quả quyết 90% là bịa đặt. Đối với anh, cuốn sách phơi bầy rõ ràng tính gian trá và thiếu lương thiện của ông Mậu. Anh nói:
"Nói những chuyện không hay về người chỉ huy cũ của mình là một việc làm đáng xấu hổ. Nhưng không nói lên sự thật về những điều mình biết là bịa đặt, xuyên tạc một cách bất lương, để cho độc giả bị lừa gạt thì lại là một tội".
Và trong một cuốn băng ghi âm, anh kể khá nhiều chuyện minh chứng tính nhỏ nhen hay thù vặt, dành công của người khác, khả năng yếu kém về an ninh v. v. . . Nhưng không làm phí thì giờ của quý độc giả, ở đây tôi chỉ xin trích lược một số câu chuyện có "ý nghĩa" đối với những thành tích được ông khoe khoang trong hồi ký của ông mà thôi. Anh Ứng kể lại:
"Năm 1956, là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 85 đóng ở Phú Yên, tôi được Bộ Chỉ Huy Phân Khu Duyên Hải mời tham dự bữa cơm tiễn ông Mậu đi làm Tùy Viên Quân Sự tại Pháp. Trong bữa ăn ông nói với tất cả những người tham dự: "Bây giờ tôi vào Sài Gòn không ai tiếp. Ra Huế không được tiếp. Xin các anh mỗi người nói cho tôi một tiếng, nhiều tiếng thành tiếng vang, một ngày nào đó sẽ đến tai Thượng Cấp".
- Thời Đệ I Cộng Hòa ông không bao giờ bỏ lỡ cơ hội đề cao tinh thần chống cộng của người Công Giáo. Hết lời tán tụng đức độ, công lao của gia đình họ Ngô. Trong các buổi học tập tại Nha An Ninh Quân Đội, hai câu phương ngôn: "Đầy Vua không Khả, Đào mả không Bài" đã được ông thêm vào một vế thứ ba: "Hai dân không Diệm".
- Thời gian làm việc tại Nha An Ninh Quân Đội, là Trưởng Phòng Chính Trị, tôi thấy mtộ điều rất khôi hài, vì theo tôi biết, phúc trình của một cơ quan, đơn vị Quân Đội, không bao giờ được kết thúc như vậy. Tại Nha An Ninh Quân Đội, mọi phúc trình lên Tổng Thống, ông đều bắt phải kết thúc bằng câu: "Nha chúng tôi kính trình Tổng Thống nhận nơi đây lòng tri ân và sự trung thành tuyệt đối của Nha chúng tôi".
- Sau cuộc đảo chánh 1.11.1963, cũng trong một buổi học tập, ông đã hết lời ca tụng Tướng Dương Văn Minh, và không tiếc lời mạt sát Tổng Thống Diệm, với những tội độc tài, gia đình trị, ký thị tôn giáo v. v. . . Một sĩ quan, Đại Úy Sinh, Trưởng Phòng Công Tác của Nha, đã phát biểu ý kiến: "Xin Thiếu Tướng cho biết những ai là người đã từng ủng hộ ông Diệm thực hiện những tội ấy".
Biết Đại Úy Sinh có ý ám chỉ mình, Tướng Mậu nói: "Hết ai để chơi rồi à anh Sinh? Răng anh lại nhè tôi mà chơi?"
- Thời Tướng Khánh nắm quyền, là Chánh Sở I An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng, một hôm về Sài Gòn tôi ghé thăm ông Mậu, gặp lúc ông đang tiếp 8, 9 người khách. Ông mời tôi vào, giới thiệu với họ: Đây là Thiếu Tá Ứng, một cộng sự viên rất đắc lực của tôi, từng làm việc bên cạnh Trung Tướng từ khi ông làm Tư Lệnh Quân Đoàn II.
Nghe ông ca tụng Tướng Khánh quá mức, tôi hỏi:
- Thưa Thiếu Tướng tôi ở xa không rõ, xin Thiếu Tướng cho biết về vụ bà Phùng Há bị trở ngại bên phi trường Orly ra sao? Ông nói:
- Ồ! Anh ở xa không biết, chứ công lao của ông Khánh như Trời như Biển.
- Cuối năm 64 từ Đà Nẵng về, tôi ghé thăm ông Mậu, lúc ấy độ 11 giờ 30 trưa. Thấy ông đang tiếp hai người mặc đồ dân sự, tôi lui ra, ông gọi giật lại:
- Ứng! Vô đây, moa cần gặp toa.
Và ông giới thiệu với tôi, hai vị khách là hai nhà viết sử. Ngồi một lúc thấy trong nhà có tiếng động chén bát, tôi xin phép ra về, ông giữ lại ăn cơm cùng với hai vị khách. Chúng tôi vừa ăn chưa được nửa chén cơm, một trong hai vị hỏi ông Mậu:
- Thưa Thiếu Tướng, xin Thiếu Tướng cho biết vì nguyên nhân nào Thiếu Tướng làm cách mạng hạ nhà Ngô?
- Trả lời câu hỏi này, ông Mậu đã kể công lao ông theo phò ông Diệm từ khi còn trong binh đội khố xanh, đã hoạt động ủng hộ ông suốt thời gian ông hoạt động bí mật, cho đến khi về làm Thủ Tướng và lên làm Tổng Thống. Rồi ông nêu tên hai Tướng Huỳnh Văn Cao, Hồ Văn Tố và so sánh, những người ấy có công gì với ông Diệm mà được cho lên Tướng còn ông thì không. Vừa nghe đến đây, vị khách đã nêu lên câu hỏi, đứng dậy nói:
- Thưa Thiếu Tướng, tôi tưởng Thiếu Tướng vì Quốc Gia Dân Tộc mà làm đảo chánh hạ nhà Ngô. Hôm nay hân hạnh được nghe chính miệng Thiếu Tướng nói là, vì không được lên Tướng. Thôi, gặp Thiếu Tướng thế này là đủ rồi. Tôi xin phép cáo từ. Và vị khách đã bỏ chén cơm đang ăn dở, ra về.
Anh Ứng kể tiếp:
- Tôi không nhớ chính xác, nhưng khoảng cuối năm 66 đầu năm 67. Một hôm đến thăm ông, khi nói đến tình trạng xáo trộn xảy ra liên miên, ông nói: "Nói thật với toa, ở Việt Nam này, về quân sự moa không bằng ai, chứ chính trị ai hơn moa".
Khi tôi ra về, ông đứng dậy tiễn, không hiểu vì lý do gì, ông chỉ vào tượng Phật để trong góc nhà, nói: "Một ngày gần đây moa sẽ đập cái này đi, moa vào đạo Công Giáo".
Và vẫn chuyện Tướng Mậu viết hồi ký. Một hôm, vào tháng 3 năm 2000, tôi đến thăm ông bạn già hiện ở Thành Phố Fountain Valley, được ông đưa cho hai bản photo copy, và nói:
- Anh đọc đi rồi tôi sẽ nói cho nghe.
Hai bản này, một bản copy trang 889 và trang kế tiếp của cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi, ông Mậu kể chuyện Tướng Khánh sợ ông làm đảo chánh nên vào tháng 10. 1964 kiếm cớ đẩy ông ra ngoại quốc bằng cách sai ông đi công tác ở Thái Lan. Đến Thái Lan ông được Tướng Thái Quang Hoàng, Đại Sứ Việt Nam tại quốc gia này, dẫn đến thăm xã giao Thủ Tướng Thái Sarit Thanarat.
Bản kia là bản photo copy hai trang 180, 181 cuốn Thailand Today, A Visit to Modern Siam, do Valentin Chu soạn. In tại Thomas Y. Crowell Company New York. Trong hai trang sách đó, có đoạn nói về Thủ Tướng Sarit Thanarat: Ông Sarit Thanarat là một Thống Chế của Thái Lan. Năm 1957, trước tình hình đất nước bị đe dọa bởi lực lượng Cộng Sản tại quốc nội cũng như quốc ngoại, ông đã làm một cuộc đảo chính bất bạo động, xóa bỏ Hiến Pháp. Ông nắm quyền hành động nhằm bảo vệ nền an ninh quốc gia. Năm 1959, chính quyền của ông đã đưa ra một bản Hiến Pháp tạm thời, chỉ định thành phần Quốc Hội để thi hành quyền Lập Pháp, đồng thời soạn thảo một bản Hiến Pháp mới. Thống Chế Sarit nắm quyền cho đến khi ông qua đời vào năm 1963. Sau đó, quyền Thủ Tướng được trao cho Phó Thủ Tướng là Thống Chế Thanom Kittikachorm.
Sau khi tôi đọc xong, ông bạn già nói:
- Hai bản này do ông bạn của tôi gửi cho. Ông này người Quy Nhơn, trước làm việc cho Liên Hiệp Quốc, nay đã về hưu. Sau khi đọc hồi ký của ông Mậu, thấy viết bừa bãi quá, bực mình, ông sao hai bản này gửi cho tôi, trong thơ ông viết:
"Anh coi, đối với một nhân vật mà các quốc gia và tổ chức quốc tế đều biết tên biết mặt như ông Sarit Thanarat mà Đỗ Mậu còn dám nói một cách vô tội vạ, không biết mắc cỡ rằng, đã đến thăm xã giao ông khi anh ta đến Thái Lan vào tháng 10. 1964. Trong khi ông ấy đã mất từ năm 1963, nghĩa là cả năm trước rồi. Như vậy thì còn cái gì mà anh ta không dám nói. Chắc là anh ta đã đến nghĩa địa thăm xã giao Thủ Tướng Sarit Thanarat".
Thiết tưởng cũng nên nói rõ: Lý do Tổng Thống Diệm không cho ông Đỗ Mậu lên Tướng là vì Tổng Thống muốn giữ giá trị và thể diện cho hàng Tướng lãnh Quân Đội Quốc Gia. Tôi được Linh Mục Cao Văn Luận kể lại rằng ông Mậu có nhờ ngài xin Tổng Thống Diệm cho ông được lên Tướng. Khi vào gặp ông Diệm, Cha Luận đã khéo léo nhắc đến công lao ông Mậu đã theo hầu ông Diệm và xin cho ông Mậu lên Tướng. Ông Diệm nói với Cha Luận:
"Cha biết tôi thương hắn lắm chứ. Nhưng cho hắn lên Tướng thì ông Giáp ông ấy cười chết và họ còn coi Tướng lãnh của mình ra chi nữa".

PN99
03-12-2009, 19:53
Chương 4.1



CẦN LAO NHÂN VỊ CÁCH MẠNG ĐẢNG


LÝ THUYẾT
Lý thuyết của Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng là chủ nghĩa Nhân Vị Á Đông do ông Ngô Đình Nhu đề xướng. Cũng như tất cả các chủ nghĩa và học thuyết khác thường được ra đời do một hoàn cảnh lịch sử, chủ nghĩa Nhân Vị Á Đông được ra đời do sự đòi hỏi của hoàn cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ những năm 30-40.
Đầu năm 1930 đảng Cộng Sản đông dương (Việt, Miên, Lào). Mục đích của đảng này là quảng bá và thực thi chủ nghĩa Cộng Sản, một chủ nghĩa chủ trương vô thần, vận động một cuộc cải tổ xã hội bằng thực hiện đấu tranh giai cấp, gieo rắc hận thù, xóa bỏ truyền thống, tập tục, nếp xin hoạt, nền đạo lý của xã hội cũ. Tạo dựng một hệ thống xã hội và kinh tế mới mà trong đó mọi phương tiện sản xuất kể cả con người, cũng như sản phẩm đều là cộng hữu. Tất cả đều do nhà nước quản lý và phân phối.
Cải tổ xã hội để giải phóng con người là mục đích cuối cùng của công cuộc tranh đấu mà các con Cụ Ngô Đình Khả hằng theo đuổi để thực hiện ước vọng của Cụ. Nhưng nhận thấy cải tổ xã hội theo đường lối của đảng Cộng Sản là một việc làm cực kỳ nguy hại, nó sẽ làm sụp đổ từ nền móng, luân lý, truyền thống đạo đức của dân tộc. Nhằm tìm một đường lối cải tổ xã hội không gây ra những nguy hại như chủ nghĩa Cộng Sản, ông Ngô Đình Khôi đã đưa ông Nhu qua Pháp du học.
Ông Ngô Đình Nhu khi ấy mới hai mươi tuổi, nhưng tính tình trầm tĩnh, ít nói, thích suy nghĩ và có một khả năng nhận xét, phán đoán rất khoa học. Qua Pháp, ông thi vào Trường Ecole des Chartes (Cổ điển học hiệu) theo môn Cổ học để có môi trường nghiên cứu, sưu tầm các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội xưa và nay, khả dĩ giúp ông xây dựng được một hệ thống tư tưởng tiến bộ, nhưng phù hợp với nền kinh tế, văn hóa và hoàn cảnh xã hội của Việt Nam.
Khi đã thành tài, phải hồi hương, nhưng công việc nghiên cứu vẫn chưa hoàn tất nên, theo Nhật Báo Cách Mạng Quốc gia thời Đệ I Cộng Hòa Việt Nam, số ra ngày 25.10.1962:
‘’Cùng trong năm 1938, sau khi đậu Cử Nhân Văn Chương và tốt nghiệp Trường Cổ Điển Học Hiệu tại Ba Lê, ông trở về phục vụ. Nhà đương cuộc Pháp mời ông đảm trách chức vụ quan trọng trong guồng máy cai trị, nhưng ông đều từ chối, chỉ nhận chức vụ hoàn toàn chuyên môn: Chánh Sự vụ Sở Sưu Tầm Tài Liệu Tổng Quát tại Thư Viện Trung Ương Đông Dương (Hà Nội 1938-1942), để có dịp tiếp tục nghiên cứu các nền văn minh Âu, Á, các tổ chức chính trị, xã hội, kinh tế hiện đại cùng các trào lưu tiến hóa của nhân loại. Chính nhờ ở công cuộc khảo cứu uyên thâm này và nhờ ở đức sáng tạo phong phú hiếm có mà Chủ Nghĩa Nhân Vị Á Đông đã chớm nở và phát triển mạnh mẽ.
Từ 1942 đến 1945, ông liên tiếp giữ chức Chánh Sự Vụ Sở Văn Khố và Thư Viện Trung Phần, và Tổng Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Việt Nam.
Ông Ngô Đình Nhu đặc biệt quan tâm đến lực lượng lao động và hoạt động mạnh mẽ cho Phong Trào Nghiệp Đoàn.
Ông là người sáng lập Liên Đoàn Lao Công Việt Nam. Đường lối hoạt động của Liên Đoàn do ông hoạch định và soạn thảo.
Trong những năm 1949, 1950, tiếng tăm của ông lừng lẫy sau những buổi diễn thuyết về ‘’Chủ Nghĩa Nhân Vị’’ và ‘’Học Thuyết Xã Hội Nhân Bản’’ tại Đà Lạt, Hà Nội, Huế, Sài Gòn.
Năm 1950, ông Ngô Đình Nhu thành lập và là Chủ Bút Tạp Chí ‘’Xã Hội’’, mà đường lối đấu tranh đã gây một ảnh hưởng sâu rộng trong các giới thức giả Việt Nam’’.
Để quý độc giả có một ý niệm khái quát về chủ nghĩa Nhân Vị Á Đông và Học Thuyết Xã Hội Nhân Bản do ông Ngô Đình Nhu đã nghiên cứu và hình thành. Dưới đây, tôi xin trích nguyên văn lời ông giải thích vắn tắt về chủ nghĩa và học thuyết này, trong buổi sinh hoạt với các Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược Khóa VIII dành cho các Giáo Sư Đại và Trung Học, ngày 8.1.1963 tại Trung Tâm Thị Nghè. Và cuộc nói chuyện với Cán Bộ Xây Dựng Ấp Chiến Lược tại một Tỉnh miền Trung cũng vào đầu năm 1963.
Tại Thị Nghè, ông nói: ‘’... mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý Thức Hệ, mà chúng ta không có một Ý Thức Hệ cứng rắn, rõ ràng, trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà đánh Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc’’.
Một vị Giáo Sư, ông Vũ Quốc Thúc, hỏi:
Hỏi: Ông Cố Vấn Chính Trị có nói, có thể đây là Ý Thức Hệ (Nhân Vị) toàn diện. Chúng tôi thấy trong một Quốc Gia khó thống nhất được các Ý Thức Hệ. Về Ý Thức Hệ có người theo tôn giáo này, có người theo tôn giáo kia, có người không theo tôn giáo nào. Vì vậy, về vấn đề Ý Thức Hệ toàn diện chúng tôi thấy nó khó như vậy.
Đáp: Chúng tôi nói Ý Thức Hệ toàn diện, là có ý nói về sự toàn diện của con người. Con người có ba phương diện:
- Phương diện thứ nhất là đời sống Nội Tại (bề sâu) có: Tự do, trách nhiệm, siêu nhiên, tình thương.
- Phương diện thứ hai là đời sống Cộng Đồng (bề rộng) có: Sống với cộng đồng gia đình, cộng đồng xã hội, cộng đồng quốc gia, cộng đồng nhân loại và sống trong thiên nhiên.
- Phương diện thứ ba là đời sống Siêu Nhiên (bề cao) có: Sự hướng lên với cái gọi là Toàn Chân, Toàn Mỹ, Toàn Thiện. Cái Toàn Chân, Toàn Mỹ, Toàn Thiện đó, người này nói là Thiên Chúa, người kia nói là Thần Chủ, người nọ nói là Thượng Đế, người khác nói là Đấng Chí Tôn. . . cái đó mình không đi sâu vào, nhưng ai cũng biết là mình có Chiều Cao hướng lên với cái ta gọi là Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ.
Cái căn bản triết lý ấy không ít thì nhiều cũng có va chạm vào các tôn giáo, tín ngưỡng cổ truyền của xứ sở. Nhưng chuyện phải dứt khoát với một số thái độ, thái độ triết lý, tín ngưỡng hay là cảm tình cổ truyền là một cuộc Cách Mạng phải làm, không làm không được. Vì giả như có người nói rằng ta phải tôn trọng và thờ ‘’miếng sắt’’, và truyền giảng đó là một tín ngưỡng, một tôn giáo. Và nếu ta tôn trọng tín ngưỡng, tôn giáo ấy, không dám đập vào miếng sắt thì làm sao mà có kỹ nghệ hóa được. . . Tôi rất đồng ý với ông bạn đã nêu lên vấn đề đó, nghĩa là mình không đi sâu vào đạo giáo nào, nhưng có một số thái độ phản tiến bộ thì mình phải biến đổi. . . Đó là nhiệm vụ đối với Dân Tộc, mình không thể đào ngũ, không thể trốn tránh nhiệm vụ lãnh đạo của mình, nhưng phải cởi mở, vui vẻ trẻ trung, thương yêu nhau, chứ không phải đả phá làm mất lòng nhau.
Chúng ta phải nhìn nhận rằng có một số thái độ cổ truyền không thể tồn tại, vì nó chận bước tiến của dân tộc. Từ sự nhìn nhận ấy, ta ý thức được nhu cầu phải thanh toán bằng cách này hay cách khác, một số thái độ làm cản trở bước tiến của Dân Tộc, bước tiến nhằm phục vụ con người trong xã hội.
Muốn phục vụ con người trong xã hội thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến. Nhưng xã hội chỉ tiến được với những con người có ý thức nhiệm vụ. Cho nên, trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến bộ.
Ý Thức Hệ chúng tôi chủ trương là Ý Thức Hệ Nhân Vị. Về Tư Tưởng Nhân Vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tín ngưỡng hữu hình, một tín ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức. . . Ý Thức Hệ Nhân Vị chúng tôi chủ trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo, tất cả các triết lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong Ý Thức Hệ đó.
Hỏi: Người ta cho rằng Thuyết Nhân Vị hiện tại ở khu vực Quốc Gia của chúng ta là cái Nhân Vị của các Linh Mục đã dạy ở Vĩnh Long, thì hoàn cảnh liên đới với một tôn giáo, bởi thế cho nên chúng tôi có thắc mắc về vấn đề Nhân Vị với lại toàn diện của con người, mà ông Cố Vấn lúc đầu có đề nghị ra?
Đáp: . . . tôi thấy có thắc mắc là tại vì có lớp học Nhân Vị do các ông Linh Mục ở dưới Vĩnh Long là tiêu biểu. Chúng tôi không phủ nhận công nghiệp của ai cả, nhưng chúng tôi nói để các anh em biết rằng, chúng tôi không biết gì về chuyện dạy Nhân Vị ở Trung Tâm đó, chúng tôi không theo dõi không chủ trương. Đó là một cố gắng cá nhân trước sự thiếu sót một Ý Thức Hệ. Có một số người bên Công Giáo họ đứng ra tổ chức, nội dung và đường lối học tập không liên quan gì đến Chính Phủ hay toàn dân. Đó chỉ là một sáng kiến riêng có ích.
Ta không thể nói rằng đem cái đó ra để lừa bịp người ta, bởi vì ai cũng biết đó là loại Nhân Vị Thiên Chúa Giáo. Đối với Thuyết Nhân Vị Thiên Chúa Giáo, chúng tôi cũng chưa hiểu cái đó có đúng không, chưa hiểu cái đó nó có đúng tới mức không.
Chúng ta cần minh xác, đó là một sáng kiến tư nhân, nhưng được Chính Phủ ủng hộ và giúp đỡ, vì cho đến nay, ngoài Trung Tâm ấy, chúng ta không có một nơi nào khác để bàn thảo về một Ý Thức Hệ Quốc Gia. Bây giờ chúng ta cùng nhau tổ chức trên lập trường dân tộc, để mà đặt đúng cái đường lối Nhân Vị của chúng ta.
Và trong cuộc nói chuyện tại một Tỉnh ở miền Trung cũng vào đầu năm 1963, để giúp cán bộ dễ hiểu và dễ nhớ những điểm chính yếu, thuyết Nhân Vị Á Đông do ông đề xướng được ông giảm lược bằng phương trình sau đây:
TAM TÚC + TAM GIÁC= TAM NHÂN
(Chữ TAM NHÂN dùng ở đây có nghĩa là ba chiều kích của con người, như đã nói ở trên).
Và ông giải thích vắn tắt:
A-TAM TÚC:
1. Tự Túc về Tư Tưởng là tự mình suy luận, cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạng chính trị, xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc. Tự Túc được về tinh thần, về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn ta vẫn vững tâm, hoặc dù có nội loạn ở Thủ Đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta cũng không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự Túc về Tư Tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được vậy thì phải:
2. Tự Túc về Tổ Chức và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính Phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm Ấp Chiến Lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao Nguyên), hoặc dùng địa hình địa vật để lồng hệ thống bố phòng Ấp Chiến Lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện Tự Túc về Tổ Chức thì cần phải:
3. Tự Túc về Kỹ Thuật, là phát huy khả năng chiến đấu và khai thác, phát triển khả năng của nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%.
Ba bộ phận của Tam Túc có liên hệ mật thiết với nhau, muốn Tự Túc về Tổ Chức mà không Tự Túc về Kỹ Thuật thì Tổ Chức không thành, thiếu Tự Túc Tư Tưởng thì tất nhiên sẽ không có Tự Túc Tổ Chức và Tự Túc Kỹ Thuật. Từ quan niệm Tam Túc đó phát sinh ra quan niệm Tam Giác.
B- TAM GIÁC:
1. Cảnh giác về Sức Khỏe (thể xác) nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả những việc làm phương hại cho thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.
2. Cảnh Giác về Đạo Đức và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong và đạo đức là điều kiện cốt yếu của cán bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tư tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể việc thất nhân tâm.
3. Cảnh giác về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật lực sẵn có đến tột độ.
Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc sáng tạo, nhưng không có đạo đức, thì sức khỏe ấy, óc sáng tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không phải cho chính nghĩa.
Bởi đó cho nên ba bộ phận của Tam Giác có liên hệ mật thiết với nhau. Và, có Tam Giác mới có Tam Túc, Tam Túc và Tam Giác liên hệ chặt chẽ với nhau.
Và Tam Túc hợp với Tam Giác mới cống hiến đủ điều kiện khách quan và chủ quan cho sự thực hiện lịch sử của Tam Nhân Chủ Nghĩa. Tam Nhân Chủ Nghĩa gồm có:
a. Thực tại của con người về Bề Sâu của nó, trong đó có tự do, trách nhiệm, suy luận và tình thương.
b. Thực tại về Bề Rộng của con người là cảm thông và liên đới với các con người khác, thành ra một cộng đồng nhân vị.
c. Thực tại về Bề Cao của con người, vì con người bởi Thượng Đế mà ra, sinh ký, tử quy và sẽ trở về với Thượng Đế.
Đứng về phương diện kinh tế, xã hội, chính trị, Tam Nhân Chủ Nghĩa đó được biểu lộ ra trong danh từ
NHÂN VỊ + CỘNG ĐỒNG = ĐỒNG TIẾN
Và đang được thực hiện một cách cụ thể, dễ hiểu trong các Ấp Chiến Lược.
(Nhân Vị phải kết hợp với Cộng Đồng và ngược lại, và cùng tiến. Vì Nhân Vị không kết hợp với Cộng Đồng thì chỉ là một hình thức che đậy Cá Nhân Chủ Nghĩa quy về vị kỷ. Cộng Đồng không kết hợp với Nhân Vị thì chỉ là một Tập Thể Chủ Nghĩa trá hình nhằm nô lệ hóa con người).
Tóm lại, vốn liếng mà ta trao cho Cán Bộ được rút gọn trong phương trình:
TAM TÚC + TAM GIÁC= TAM NHÂN
Đó là căn bản tư tưởng và phương pháp hoạt động của dân tộc ta. Căn bản đó nhằm chống lại mặc cảm hòa giải, chống lại thói bất phản kháng điều ác và đầu hàng trước thời thế. Lý tưởng NHÂN VỊ cống hiến cho thế hệ thanh niên và toàn thể dân tộc một lý tưởng Anh Hùng, vì nếu có những kẻ ngã qụy và bị tiêu diệt, thường không phải vì quá bạo dạn. Chối từ nghĩa khí Anh Hùng, do dự bất quyết, biện luận mông lung giữa trận mạc, bao nhiêu thái độ xô đẩy cá nhân cũng như dân tộc tới tình trạng suy tàn, diệt vong. Đó là một sinh thái khắc khe của tạo vật, các chủng loại hèn yếu sẽ bị các chủng loại hùng mạnh tiêu diệt.
Lý tưởng NHÂN VỊ cô lại trong ý nghĩa:
Anh hùng tự lập và tự tạo thời thế.
Mỗi người Việt Nam phải là một anh hùng.
Trong Thông Điệp ngày Song Thất năm 1961, Tổng Thống Diệm nói về chủ nghĩa Nhân Vị như sau:
- Đương đầu với lối tự do Tư Bản chia cách người với người và khiến người trở thành tù đầy cho lòng vị kỷ.
- Đương đầu với đường lối Mác-Xít, hạ giá con người xuống mức dụng cụ sản xuất.
- Chủ Nghĩa Nhân Vị bảo vệ tự do cá nhân lẫn lợi ích công cộng.

PN99
03-12-2009, 19:55
Chương 4.2



THÀNH LẬP, TỔ CHỨC VÀ THỰC TRẠNG


THÀNH LẬP: Sau khi hoàn thành công trình nghiên cứu và hình thành Chủ Nghĩa Nhân Vị Á Đông và Học Thuyết Xã Hội Nhân Bản, ông Ngô Đình Nhu tiến tới việc thành lập một tổ chức tập họp, huấn luyện cán bộ, ngõ hầu thực hiện công cuộc cải tổ xã hội Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa và học thuyết này. Mục đích chính yếu trong chương trình cải tổ xã hội của ông là thiết lập sự tôn trọng phẩm giá con người và giá trị lao động về mặt tinh thần cũng như vật chất cho hai giai cấp vốn bị coi là thấp hèn nhất trong xã hội Việt Nam, đó là giới Nông Dân và Công Nhân. Do đó, khởi đầu ông đặt tên cho tổ chức này là Đảng Công Nông. Nhưng một thời gian ngắn sau, nhận thấy danh xưng này không nói lên được đầy đủ ý nghĩa, tôn chỉ của tổ chức, nên ông đã đổi tên Đảng Công Nông thành Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng.
Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng với tôn chỉ:
NHÂN VỊ + CỘNG ĐỒNG= ĐỒNG TIẾN
Nhằm mục đích thực hiện một cuộc cách mạng cải tạo xã hội Việt Nam, giải quyết tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm tiến, đem lại cho Con Người phẩm giá phải có của mình, và cho giới lao động giá trị đích thực của họ. Phân chia một cách công bằng và hợp lý quyền lợi giữa nhân vị và cộng đồng. Xây dựng một Chế Độ Dân Chủ Xã Hội không Cộng Sản cho Việt Nam, tạo điều kiện tiến bộ đồng đều cho cá thể cũng như tập thể.
Sau khi thành lập Đảng Cần Lao Nhân Vị, năm 1950 ông Ngô Đình Nhu đã mở một lớp huấn luyện đầu tiên tại Đà Lạt, đào tạo một số cán bộ làm nòng cốt, nhằm quảng bá Chủ Nghĩa và thực hiện Học Thuyết ông đề ra (Hai cán bộ được đào tạo trong khóa huấn luyện đầu tiên này hiện định cư tại Hoa Kỳ là ông Đỗ La Lam, ở Thành Phố Baton Rouge, Louisana và ông Nguyễn Hữu Khai. Ông Khai qua đời vào trung tuần tháng giêng 2002 ở Thành Phố Santa Ana, County, California). Đường lối đấu tranh của Đảng được ông tóm tắt và hệ thống hóa theo Lược Đồ Một Cuộc Cải Tổ Cơ Cấu Xã Hội, được phổ biến trong số ra mắt tạp chí Xã Hội, tháng 12.1952.
TỔ CHỨC: Trước khi được tổ chức thống nhất thành Đảng Cần Lao Nhân Vị, tiền thân của Đảng tại cả ba miền Bắc, Trung, Nam là những phong trào, nhóm hoạt động ủng hộ đường lối đấu tranh dành lại độc lập, chủ quyền cho đất nước, chống lại cả hai chủ nghĩa: Thực dân và Cộng Sản, của ông Ngô Đình Diệm.
Tại miền Bắc, có Phong Trào Dân Chúng Liên Hiệp hoạt động ủng hộ ông Ngô Đình Diệm với các nhóm của các Linh Mục Nguyễn Văn Bằng, Lê Sương Huệ, Nguyễn Văn Thuyết, với các ông Nguyễn Đắc Am, Lê Quang Tĩnh, Thái Văn Long tức Nguyễn Tiến Lục, Hoàng Văn Bá, cô Tuyết, ông Nguyễn Văn Thuận, Dương Thiện Trù v. v. . . Và các tổ chức chống cộng, ủng hộ đường lối đấu tranh của ông Diệm như tổ chức của Thượng Tọa, nay là Hòa Thượng Thích Tâm Châu, của ba Hội Cựu Chiến Binh Cứu Quốc của các ông Bạch Văn Sâm, Trần Xuân Diên và Nguyễn Văn Mẫn.
Ở miền Trung thì nồng cốt là nhóm đồng chí và đệ tử của Cụ Phan Bội Châu như ông Võ Như Nguyện. . . và nhóm người thường quy tụ xung quanh ông Ngô Đình Diệm sau khi ông từ chức Thượng Thư Bộ Lại như các ông Nguyễn Hữu Khai, Tôn Thất Trạch, Nguyễn Đôn Duyến, Trần Văn Hướng, Nguyễn Đình Cẩn. Sau có thêm nhóm quân nhân thời pháp như các ông Lê Khương, Phùng Ngọc Trưng, Đỗ Mậu v. v. . .
Tại miền Nam có nhóm trí thức từng sinh hoạt với ông Ngô Đình Nhu, và tán thành đường lối đấu tranh của ông Diệm, tức nhóm Tinh Thần, với các Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, Nguyên Tăng Nguyên, các ông Trần Quốc Bửu, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa v. v. . .
Khi đảng Cần Lao Nhân Vị được thành lập, năm 1950, phần đông các tổ chức và những thành phần trên đây đều là cơ sở, đảng viên đầu tiên của Đảng.
Đến đầu năm 1954 Đảng bắt đầu phát triển mạnh, đặc biệt là trong hàng ngũ Quân Đội tại miền Trung. Cố Trung Tá Nguyễn Văn Châu, khi ấy là Trung Úy thuộc Phòng Quân Nhu Quân Khu II, người được Linh Mục Lê Sương Huệ tiến cử làm liên lạc viên cho ông Ngô Đình Diệm, thời gian ông bị ông Hồ chí Minh quản thúc tại Hà Nội (1946), được ông Ngô Đình Cẩn, với tư cách Bí Thư của Đảng, giao nhiệm vụ tổ chức đảng trong Quân Đội.
Đảng được tổ chức theo hệ thống, trên hết là Trung Ương Đảng, kế đến là:
Phía Dân Sự: Liên Khu, Khu, Tỉnh, Quận và Chi Bộ.
Phía Quân Sự: Quân Ủy, Khu, Sư, Liên Chi, Chi Bộ và Tổ.
Phía Quân Sự, một cuộc họp Đại Biểu Đảng trong toàn quân được tổ chức tại Nha Trang vào hạ bán niên 1955, do Trung Tá Đỗ Mậu khi ấy là Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Duyên Hải phụ trách. Tại Đại Hội này, một Quân Ủy đã được thành lập với tên gọi là Quân Ủy Lê Lợi. Đại Hội cũng bầu ra Ban Chấp Hành đầu tiên của Quân Ủy Lê Lợi với Bí Thư là Tướng Lê Văn Nghiêm, bí danh Minh Sơn. Ông Ngô Đình Nhu, từ Sài Gòn ra dự buổi họp bế mạc với tư cách Tổng Bí Thư, chấp nhận thành phần Ban Chấp Hành Quân Ủy và chứng kiến lễ huyết thệ tuyệt đối trung thành với Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm và Đảng của tất cả các đảng viên tham dự cuộc họp. Năm 1957, khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm mọi sinh hoạt chính trị trong Quân Đội, Quân Ủy Đảng Cần Lao đã được ngụy trang dưới bí số B5 (Ban 5).
THỰC TRẠNG: Trong những năm đầu (1954-1960) đảng sinh hoạt đều đặn, nội dung sinh hoạt tương đối có chất lượng về các mặt xây dựng cán bộ, cơ sở đảng và chính quyền. Nhưng từ năm 1961, sinh hoạt của đảng mỗi ngày mỗi lỏng lẻo, rời rạc. Sở dĩ xảy ra tình trạng này là vì:
1. Từ khi được thành lập đến khi nắm được chính quyền là một thời gian quá ngắn. Hầu hết cán bộ, đảng viên chưa học hỏi kinh nghiệm sinh hoạt đảng phái, chưa từng trải những khó khăn, gian nguy trong tranh đấu.
2. Ngay sau khi Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm vừa nắm chính quyền, các vị lãnh đạo cũng như cán bộ, đảng viên mọi cấp đã bị công tác đối phó với những khó khăn thời cuộc cuốn hút hết thời gian. Công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ không được thực hiện đúng quy định và yêu cầu.
3. Trong thời gian tình hình đất nước nổi lên quá nhiều khó khăn (1954-1956), một phần chi phối bởi nhu cầu đối phó với tình hình, phần khác cũng do một số cán bộ mắc bệnh chủ quan, thiếu thận trọng. Nên việc kết nạp đảng viên thường căn cứ vào cấp bậc, chức vụ hoặc tình cảm mà bỏ qua nguyên tắc điều tra lập trường, thử thách đạo đức trong một thời gian cần thiết, trước khi chính thức kết nạp.
Tình trạng kết nạp đảng viên lệ thuộc vào tình hình và phần nào thiếu thận trọng trên đây đã tạo cơ hội cho một số bọn ‘’thời cơ chủ nghĩa’’ lọt được vào đảng với mục đích bảo vệ quyền lợi cá nhân hơn là lý tưởng. Sau khi lọt được vào Đảng, để củng cố uy thế, mưu lợi cá nhân, nhóm này thường khoa trương ‘’nhãn hiệu’’ Cần Lao và để tỏ ra là một đảng viên trung thành, họ hay có những hành động thiếu ý thức đối với các đảng phái khác và những người có tư tưởng không đồng nhất với chính quyền. Hành động của nhóm người này cộng với tác phong của chú ngựa chở sắc phong Thành Hoàng về làng của một vài cán bộ được Tổng Thống Diệm tín nhiệm, đã góp phần không nhỏ vào việc tạo ra nguyên nhân làm cho một số người bất mãn với chế độ. Đồng thời làm cho người bàng quan lầm tưởng rằng Tổng Thống Diệm dùng Đảng Cần Lao khống chế chính quyền. Vì thực ra, tuy được tôn là Lãnh Tụ của Đảng, nhưng ông Diệm hoàn toàn không biết gì đến Đảng Cần Lao. Từ ngày đầu trong cuộc đời tranh đấu của ông, ông luôn giữ lập trường phải đứng trên các đảng phái để đoàn kết được toàn lực quốc gia. Ông không dành một đặc quyền nào cho đảng viên Đảng Cần Lao. Chính vì thế mà số đảng viên vào đảng vì lợi và danh đã trở lại giết ông vì ông không thỏa mãn sự thèm khát danh và lợi của họ.
4. Thêm vào những yếu tố trên đây, lệnh cấm mọi sinh hoạt chính trị trong Quân Đội của Tổng Thống Diệm đã ảnh hưởng quá mạnh trên các tổ chức và sinh hoạt của đảng. Do lệnh này (1957), Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia trong Quân Đội phải giải tán, các cơ sở sinh hoạt Đảng Cần Lao ở mọi cấp trong Quân Đội đều phải ngụy trang. Vin vào tình trạng này, nhiều cơ sở đảng đã dần dần lơ là hẳn với nhiệm vụ sinh hoạt bồi dưỡng tinh thần cán bộ.
Riêng về tình trạng phân hóa của Đảng Cần Lao tại miền Nam, có dư luận cho rằng ông Ngô Đình Cẩn gây ra tình trạng này. Vì muốn mở rộng ảnh hưởng vào miền Nam, ông Cẩn đã lập một Đảng Cần Lao riêng chống lại Đảng Cần Lao của ông Nhu. Sở dĩ có dư luận này là vì vào khoảng năm 1958-1959, ông Cẩn có chấp thuận cho ông Phan Ngọc Các tổ chức thâu nhận đảng viên cho Đảng Cần Lao tại miền Nam. Nhưng không phải để chống lại ông Nhu. Đó là điều tôi biết chắc chắn. Vì khi ông Cẩn sai tôi đưa ông Phan Ngọc Các đến giới thiệu với các ông Mai Ngọc Dược Tỉnh Trưởng Long An, Trương Hữu Diệp Tỉnh Trưởng Mỹ Tho, Lương Duy Ủy Tỉnh Trưởng Vĩnh Bình, là những đảng viên Cần Lao được chuyển từ miền Trung vào, ông đã căn dặn tôi lưu ý các vị này rằng, các cơ sở ông Phan Ngọc Các tổ chức được, đều phải sinh hoạt trong hệ thống Tỉnh Đảng Bộ địa phương. Khi đã được sự chấp thuận của ông Cẩn và được giới thiệu với một số địa phương rồi, ông Các tự xưng là đại diện cho ông Cẩn tại miền Nam làm nhiều việc tai tiếng cho ông Cẩn và chế độ. Đó chỉ là hậu quả của phương pháp làm việc NGĂN CÁCH của ông Cẩn, vì không ai kiểm soát được ông Các để ngăn chận những hành động bất chính của ông ta.
Trước tình trạng trên đây của Đảng Cần Lao, đầu tháng 7. 1961, ông Ngô Đình Nhu ra Huế ở lại mười ngày. Sau đó, tôi được biết có kế hoạch tổng cải tổ và thành lập một Đảng Cần Lao mới, cấp tiến và chặt chẽ hơn. Tại miền Trung và Cao Nguyên Trung Phần, đã tiến hành ngay cuộc rà soát lại tình trạng nội bộ Đảng, để sẵn sàng thực hiện kế hoạch. Nhưng rồi tình hình biến chuyển quá nhanh, kế hoạch này đã không thực hiện được.
Đến đây, theo lời yêu cầu của nhiều đảng viên Cần Lao cũ từ nhiều nơi đòi hỏi, sau khi họ đọc cuốn tự truyện của Tướng Tôn Thất Đính. Tôi cần phải làm sáng tỏ việc Tướng Đính gia nhập Đảng Cần Lao, và về tổ chức ‘’Quân Ủy Cần Lao’’, được ông đề cập đến trong tự truyện 20 Năm Binh Nghiệp của ông. Vì nó đã được viết một cách thiếu rõ ràng, không chính xác. Hơn nữa còn chất chứa nhiều ác ý.
A. Tại Chương IV, ông kể lại cuộc lễ tuyên thệ gia nhập Đảng Cần Lao của ông. Tôi hết sức ngạc nhiên, không hiểu tại sao Tướng Đính lại có thể kể lại một buổi lễ tuyên thệ không hề có như thế.
Ông Đính nói rằng, buổi lễ tuyên thệ được tổ chức một cách bí mật cuối năm 1957, tại một biệt thự gần Trường Thiên Hựu (Providence), trụ sở bí mật của Đảng Cần Lao, do Đại Úy Lê Quang Tung tổ chức và hướng dẫn ông. Tại trụ sở bí mật này ông thấy:
‘’Một bàn thờ Tổ Quốc rất lạ lùng: Quốc Kỳ và Đảng Kỳ dược treo song song, nhưng Đảng Kỳ gồm hai màu xanh lá cây và đỏ. Trên bàn thờ có tượng Chúa Gêssu, chân dung của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và một bộ tam sên cùng một thanh gươm’’. (20 Năm Binh Nghiệp. Trang 86)
1. Từ cuối năm 1956, Đại Úy Lê Quang Tung đã được lên Thiếu Tá và mang luôn cấp bậc Trung Tá giả định, vào nhận chức Giám Đốc Tổng Nha Nghiên Huấn Bộ Quốc Phòng thay thế Đại Tá Lê Văn Lung tại Sài Gòn. Làm sao cuối năm 1957 còn Đại Úy Lê Quang Tung nào ở Huế hướng dẫn và tổ chức lễ tuyên thệ cho ông? Trường hợp Tướng Đính có được ông Cẩn đặc cách cho tuyên thệ gia nhận Đảng, thì Bí Thư cơ sở Đảng tại Sư Đoàn I Bộ Binh khi ấy là cựu Đại Tá Hồ Ngọc Tâm và tôi, trong nhiệm vụ Ủy Viên Thường Trực Khu Bộ Trần Hưng Đạo (Cơ sở Đảng Cần Lao tại Quân Khu II, sau đổi thành Quân Đoàn I Vùng I Chiến Thuật), không thể không được biết.
2. Một điểm khác nữa. Từ đầu năm 1956, khi ông Ngô Đình Cẩn chính thức mở Văn Phòng Cố Vấn Chỉ Đạo, tại văn phòng này đã dành trọn tầng lầu hai, thiết trí một bàn thờ Tổ Quốc rất trang trọng và rộng rãi. Mọi cuộc lễ tuyên thệ của các đảng viên có cấp bậc và chức vụ cao, hành chánh cũng như quân sự, đều được tổ chức tại đây, như trường hợp Tướng Đôn tôi vừa kể lại ở trên. Làm sao Tướng Đính lại phải tuyên thệ tại một ‘’trụ sở bí mật’’ với bàn thờ Tổ Quốc có ảnh Chúa Gêssu trên đó?
3. Thật ra Tướng Đính đã được tuyên thệ gia nhập Đảng Cần Lao từ tháng 9. 1956, ngay trong tư dinh của ông, trước nhà ga xe lửa Đà Nẵng, khi ông đang là Tư Lệnh Sư Đoàn II Bộ Binh. Sau lễ tuyên thệ, cơ sở Đảng tại Sư Đoàn đã đãi ông bữa tiệc thịt dê nữa. Người đứng tổ chức buổi lễ tuyên thệ này cho ông, và tiệc mừng đồng chí Văn Anh là cựu Đại Úy Lê Tuệ Tĩnh, có bí danh là Lê Hùng Phong, hiện định cư tại Thành Phố Lakewood, Colorado. Đồng chí Lê Hùng Phong sau này là Ủy Viên Thường Trực Sư Bộ Trần Quốc Toản, tức cơ sở Đảng Cần Lao tại Sư Đoàn II Bộ Binh. Không biết Tướng Đính còn nhớ ‘’đồng chí’’ này của ông không? Nhiều đảng viên Cần Lao tại Sư Đoàn II Bộ Binh khi trước, hiện định cư tại California và một số Tiểu Bang khác, đã yêu cầu tôi phải làm sáng tỏ những điều Tướng Đính nói không đúng.
Tại sao Tướng Đính lại có thể quên một cuộc lễ tuyên thệ mà ông được trân trọng như thế, để tưởng tượng ra một cuộc lễ tuyên thệ với những chi tiết không đúng sự thật một cách thiếu đứng đắn như vậy? Để làm gì?
B. Trong Chương VI, Tướng Đính nói Quân Ủy đã họp mật ở Ban Mê Thuột vào tháng 3/1962, ‘’phân phối quyền Tư Lệnh’’ Quân Khu cho bốn Tướng, Nghiêm, Đính, Khánh, Cao. Trong khi Quân Ủy chính thức và duy nhất của Đảng Cần Lao khi ấy chỉ còn cái tên, với người phụ trách là cố Đại Tá Lê Quang Tung, và hai Ủy Viên là cố Trung Tá Phạm Thứ Đường và cựu Đại Tá Trần Khắc Kính, đều không hoạt động gì từ cả năm trước.
Rồi trong Chương kế tiếp ông nói, trong bốn Tướng này.
‘’thì riêng có Tướng Lê Văn Nghiêm là không thuộc Đảng Cần Lao, và ông chưa bao giờ tham gia vào bất cứ một sinh hoạt nào của Quân Ủy, từ khi cầm quyền chỉ huy các đại đơn vị cho đến lúc bấy giờ’’. (20 Năm Binh Nghiệp. Trang 224)
C. Đến Chương XI, được ông dành riêng cho ‘’Quân Ủy Cần Lao’’ với các mục ‘’Quân Ủy quyết định ra tay’’ gọi Phật Giáo là ‘’bọn nội thù’’, ‘’Cần Lao biểu dương quyền lực’’, ‘’Kế hoạch tấn công Phật Giáo’’, ‘’Cuộc đánh phá Chùa chiền’’ v. v. . . Cái Quân Ủy này lại còn ra cả ‘’văn bản mật’’ chỉ thị cho Quân Đội, Công An, Cảnh Sát đánh phá Chùa chiền. Tướng Đính nói, sau khi tuyên hệ gia nhập Đảng, ông được bổ sung vào Quân Ủy. Việc này tôi nghĩ là không có. Và nếu có như ông nói, thì ông có chịu trách nhiệm về những quyết định ông vừa kể trên đây của cái Quân Ủy mà ông là Ủy Viên không?
Tôi không biết các Chương, Mục trên đây do ông tự viết hay nó đã được ai viết thay cho ông? Nếu Tướng Đính tự viết những Mục và Chương này, thì không lẽ trí nhớ của ông đã suy tàn đến độ, không những đã quên ngày và nơi ông được tuyên thệ gia nhập Đảng Cần Lao. Ông còn không nhớ cả việc ông đã lấy làm ‘’hết sức vinh dự’’, được hướng dẫn Đoàn Đại Biểu Đảng Cần Lao tại Cao Nguyên về dự họp Đại Hội Đảng Toàn Quân tổ chức tại Nha Trang cuối năm 1955. Mặc dầu khi ấy ông mới chỉ là một đảng viên dự bị với bí danh là Văn Anh. Ông cũng không nhớ cả việc trong cuộc Đại Hội này, ông Đỗ Mậu, khi ấy là Trung Tá, người trách nhiệm tổ chức Đại Hội, đã giới thiệu ông với Đại Hội: ‘’Đồng chí Văn Anh thời xưa thân Tây, Pháp rất tin cậy. Nguyễn Văn Hinh khi phải ra đi đã nói với đồng chí ‘’À bientôt’’ (Thời gian ngắn nữa sẽ gặp lại). Nhưng bây giờ đồng chí hoàn toàn khác rồi’’. Điều đặc biệt là ông cũng không nhớ rằng: ‘’Toàn thể Đại Biểu tham dự cuộc Đại Hội này, trong đó có ông, đã giơ tay bầu đồng chí Minh Sơn tức Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư Lệnh Quân Khu II, Bí Thư Khu Bộ Trần Hưng Đạo’’ vào chức vụ Bí Thư Quân Ủy. Mặc dầu Tướng Nghiêm không có mặt trong cuộc Đại Hội.
Đây là Quân Ủy duy nhất được bầu lần đầu tiên, và cũng là lần sau hết. Những người trong đoàn Đại Biểu của Đảng tại Quân Khu I tham dự Đại Hội này như các cựu Đại Tá Trần Khắc Kính, Nguyễn Ngọc Khôi v. v. . . hiện ở Orange County, California. Ông Đính cũng quên luôn cả việc tất cả mọi người tham dự Đại Hội, trong đó có ông, đã huyết thệ tuyệt đối trung thành với Đảng, với Lãnh Tụ Ngô Đình Diệm.
Những người từng là Ủy Viên trong Ban Chấp Hành và từng giữ chức Ủy Viên Thường Trực Quân Ủy Cần Lao từ khi nó được khai sinh, như cựu Đại Tá Trần Khắc Kính, cố Trung Tá Phạm Thứ Đường, đã hết sức ngạc nhiên về những điều Tướng Đính nói về Đảng và Quân Ủy Cần Lao trong hồi ký của ông. Cố Trung Tá Phạm Thứ Đường lúc còn sinh thời, khi nói đến vụ Quân Ủy họp tại Ban Mê Thuột đã xác nhận với tôi: ‘’Quân Ủy khi ấy còn ai nữa đâu mà họp’’.
Sau cuộc đảo chánh 1. 11. 1963, người dân miền Nam được nghe một danh từ bậm trợn: ‘’Cần Lao Công Giáo’’. Danh từ này được ‘’sáng chế’’ nhằm thực hiện một âm mưu thâm độc, phá vỡ khối đoàn kết quốc gia, đặc biệt giữa hai tôn giáo lớn: Công Giáo và Phật Giáo. Âm mưu này đã được nhóm đảng viên Cần Lao phản Đảng nhanh chóng phụ họa sử dụng và phổ biến, để che đậy và khỏa lấp tội phản bội của họ.
Đọc những gì được viết về Đảng Cần Lao, đặc biệt Mục viết về ‘’Nhập Đảng Cần Lao’’ và Chương viết về ‘’Quân Ủy Cần Lao’’ của Tướng Tôn Thất Đính, tức đảng viên Cần Lao cao cấp Văn Anh, người ta không thể không nghĩ rằng nó đã được viết theo sự chỉ đạo của âm mưu này.
Vì nếu quả thực có một tổ chức Cần Lao Công Giáo được các vị Lãnh Đạo Đệ I Cộng Hòa Việt Nam tín cẩn hơn, thì liệu các đảng viên Cần Lao cao cấp không Công Giáo, Trần Văn Đôn, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Ngọc Lễ (tôi quên bí danh) Văn Anh Tôn Thất Đính, Hoành Linh Đỗ Mậu. . . có được giao cho nắm giữ những chức vụ quan trọng tín cẩn nhất để nhờ đó, được yên ổn thực hiện thành công âm mưu đảo chánh, giết Lãnh Tụ ngày 1.11.1963 không?
Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng, tuy chỉ nắm chính quyền trong một thời gian ngắn ngủi, nhưng là đảng chính trị đầu tiên đã có công lãnh đạo toàn dân thu hồi Độc Lập hoàn toàn và Chủ Quyền trọn vẹn cho đất nước. Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng phục vụ những giá trị, quyền lợi đích thực của Con Người, của Tổ Quốc với một Lý Tưởng và một Tôn Chỉ cao đẹp (NHÂN VỊ, CỘNG ĐỒNG, ĐỒNG TIẾN) mà ngày nay đang được một số nhà Lãnh Đạo hàng đầu thế giới đề cập tới. Làm sao thiết lập được một Xã Hội mà trong đó, cá nhân mỗi con người (nhân vị) phải được tôn trọng, không bị lợi dụng để che đậy cho chủ trương Cá Nhân Chủ Nghĩa (Tư Bản) biến con người thành lợi khí phục vụ cho quyền lợi vị kỷ. Một Xã Hội mà trong đó, tập thể (cộng đồng), không được dùng làm bình phong che đậy mưu đồ nô lệ hóa con người, để phục vụ cho quyền lợi phe phái (Cộng Sản).
Vì thế, tôi rất đồng ý với những lời ông Huỳnh Văn Lang, trong tư cách Bí Thư, ghi tặng tập ba hồi ký Nhân Chứng Một Chế Độ cho các đồng chí trong Liên Kỳ Bộ cần Lao Nam Bắc Việt của ông sau đây:
‘’Nếu chưa phải là sự hãnh diện, thì chắc chắn không bao giờ là sự tủi hổ, mà vẫn luôn luôn thân tình vì đã một thời cùng chung một lý tưởng xây dựng’’. (Nhân Chứng Một Chế Độ. Tập Ba. Trang 3)
Đúng vậy. Tuy bị phản bội từ nhiều phía và sự non yếu của tổ chức, không thực hiện được Lý Tưởng của mình, Tôn Chỉ của Đảng. Nhưng đối với các đảng viên chân chính của Đảng Cần Lao, ‘’nếu chưa phải là sự hãnh diện, thì chắc chắn cũng không bao giờ là sự tủi hổ’’, vì luôn tôn thờ một ‘’Lý Tưởng Xây Dựng’’ thật sự Cao Đẹp, và hết lòng phục vụ Đất Nước, Dân Tộc theo một Tôn Chỉ mà cho đến nay vẫn là tối hảo.
Hy vọng với phần tóm lược ngắn gọn của ông Ngô Đình Nhu về Chủ Thuyết Nhân Vị Á Đông, và phần lược thuật về thực trạng của Đảng Cần Lao trên đây, có thể cống hiến được cho quý độc giả một ý niệm khái quát về Chủ Thuyết nói trên và một cái nhìn đúng đắn về Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng.
Chủ nghĩa Nhân Vị Á Đông và học thuyết Xã Hội Nhân Bản được các nhà lãnh đạo Đệ I Cộng Hòa dùng làm nền tảng xây dựng một chế độ Dân Chủ Xã Hội không Cộng Sản cho Việt Nam. Một chế độ mà mục đích tối hậu là gỡ bỏ mọi hình thức thống trị, thiết lập công bằng xã hội, tôn trọng nhân phẩm.
Qua tập hồi ức quý độc giả đã thấy Tổng Thống Diệm và ông Cố Vấn Nhu công khai nói về hình thái và bản chất của chế độ này, đặc biệt trong phần ông Nhu nói về chủ nghĩa Nhân Vị Á Đông.
Sau khi ổn định tình hình chính trị cùng lúc ông định nơi sinh sống cho hơn một triệu đồng bào từ miền Bắc di cư vào, cả hai công việc đã được hoàn tất tốt đẹp ngoài sự ước tính của mọi người, được cả thế giới khâm phục, công cuộc xây dựng Chế Độ Dân Chủ Xã Hội không Cộng Sản cho Việt Nam được thực hiện trong tinh thần một cuộc Cách Mạng Cải Tạo Xã Hội. Trong hoàn cảnh đất nước vừa thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang suốt thời gian dài cả ngàn năm, đời sống dân chúng nghèo nàn, lạc hậu cả về tinh thần lẫn vật chất, tệ đoan và bất công xã hội chồng chất, việc thực hiện cuộc Cách Mạng này đã được chia ra nhiều giai đoạn.
Trước hết là xây dựng tinh thần và cơ sở căn bản.
Thành lập các tổ chức bảo vệ quyền làm việc, công nhận giá trị lao động, quyền hưởng thụ lợi phúc chung một cách công bằng của giới công nhân.
Cải tiến quy chế đã có, soạn quy chế mới quy chế chưa có dành cho các nghiệp đoàn, các giới chức, các ngành nghề chuyên biệt. Cải tổ các chương trình giáo dục phổ thông, đào tạo cán bộ quân sự, hành chánh, trên căn bản Quốc Gia hoàn toàn độc lập có chủ quyền.
Thực hiện Chương Trình Phát Triển Cộng Đồng, chính phủ cung cấp phương tiện, nhân dân đóng góp công sức thực hiện các tiện nghi công cộng: Bệnh Xá, Nhà Hộ Sinh, Trường Học cho các Cộng Đồng Xã Ấp, tu mở, khai mở hệ thống giao thông thủy, bộ từ những Xã Ấp nhỏ bé xa xôi nhất đến cácThị Trấn, Thị Xã. Chương Trình nhằm đem đến cho nông dân từ những vùng hẻo lánh nhất, các tiện nghi tối thiểu của đời sống, tạo điều kiện cho họ tiếp xúc với nếp sống văn minh tiến bộ hơn, dễ dàng chuyên chở sản phẩm làm ra đến thẳng các nơi tiêu thụ để khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, và tạo cho họ cơ hội tự quản trị những công trình đã thực hiện được với sự trợ giúp của chính phủ.
Sau đó, chính sách cải cách điền địa được ban hành, trưng mua ruộng đất của điền chủ phân chia cho tá điền. Thực hiện kế hoạch cân bằng mật độ dân chúng với tài nguyên và diện tích canh tác. Các chương trình khu Trù Mật và Dinh Điền được tổ chức với phương châm ‘’đưa văn minh về nông thôn’’. Nghĩa là xây dựng nông thôn thành những trung tâm sinh hoạt với đầy đủ các tiện nghi cơ bản, Trường Học, Nhà Hộ Sinh, Bệnh Xá, Phòng Thông Tin, Chợ, Nhà máy phát điện v. v. . . làm mô hình xây dựng xã hội Việt Nam sau này. Thực hiện hệ thống tưới nước ngọt, tiêu nước mặn để gia tăng diện tích canh tác.
Tiếp theo là tiến hành kỹ nghệ hóa đất nước.
Đường Xa Lộ biên Hòa được xây dựng, tái thiết đường xe lửa xuyên Việt và Quốc Lộ số I.
Điện khí hóa miền Nam với đập thủy điện Đa Nhim được xây dựng bằng tiền bồi thường chiến tranh của chính phủ Nhật Bản. Dự án xây cất đập thủy điện thứ hai tại Trị An đã được duyệt y (Địa điểm chính phủ Cộng Sản xây cất đập thủy điện hiện nay). Xây dựng khu kỹ nghệ Biên Hòa, nhà máy xi măng Hà Tiên.
Tại miền Trung, công cuộc khai thác mỏ than Nông Sơn tại vùng núi Quận Quế Sơn Tỉnh Quảng Nam phát triển mạnh. Chương trình điện khí hóa miền Trung với một đập thủy điện xây cất tại vùng đầu nguồn Sông Thu Bồn và dự án xây dựng khu kỹ nghệ An Hòa tại Quận Duy Xuyên Tỉnh Quảng Nam đã được chuẩn thuận. Dự án xây dựng nguồn điện lực thứ hai cho miền Trung với một nhà máy nhiệt điện vận hành bằng nguyên liệu từ mỏ than Nông Sơn và một số nhà máy sản xuất phân bón, tơ sợi, lắp ráp xe đạp tại Quảng Nam, nhà máy đường tại Quảng Ngãi cũng đã được duyệt y.
Thành lập Nguyên Tử Lực Cuộc. Xây cất lò phản ứng hạt nhân tại Đà Lạt.
Cuối cùng là ‘’Ấp Chiến Lược’’ được xây dựng để xây đắp nền móng vững chắc có thể chế dân chủ từ hạ tầng xã ấp trở lên, sắp đặt lại nấc thang giá trị trong xã hội. Từ cổ xưa, Binh được xếp hàng cuối cùng trong nấc thang giá trị của xã hội. Nay Binh (gồm tất cả những người trực tiếp đánh các thứ giặc: Chia rẽ, Chậm tiến, Cộng Sản) đứng hàng thứ nhất trong nấc thang giá trị của xã hội. Gia đình họ đứng hàng thứ hai và Bần cố nông đứng hàng thứ ba. Đồng thời áp dụng binh thư binh pháp mới hạ thấp dần mức độ chiến tranh, giảm bớt ngoại viện, hóa giải cuộc đụng độ giữa hai thế lực siêu cường: Tư Bản-Công sản.
Các chương trình nói trên sẽ được trình bày đầy đủ trong tài liệu Quốc Sách Ấp Chiến Lược.
Vì chủ trương một chế độ mà bản chất đi ngược lại với quyền lợi của cả hai thế lực siêu cường cùng đang hiện diện trên đất nước Việt Nam, nên anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị họng súng từ cả hai phía nhắm bắn.
Họ đã không được sống trong một xã hội Việt Nam giầu mạnh, công bằng, đoàn kết, nhân phẩm được tôn trọng như lòng họ mơ ước, nhưng họ đã tạo dựng được một ‘’Tinh Thần Độc Lập với Chủ Quyền Quốc Gia Trọn Vẹn’’ như một gia tài trân quý của các thế hệ mai sau.

PN99
03-12-2009, 19:56
Thay Lời Kết


Qua tập hồi ức nhỏ này, chúng tôi hy vọng đã cung cấp được cho quý độc giả một số dữ kiện, tuy nhỏ nhoi, nhưng hoàn toàn trung thực, liên quan đến những biến cố dẫn đến sự sụp đổ của Chế Độ Đệ I Cộng Hòa Việt Nam. Làm sụp đổ hoàn toàn một sách lược đang phục vụ dân tộc hữu hiệu, phù hợp với tình trạng đất nước. Và tiếp theo đó là hàng chuỗi biến động kéo dài nhiều năm, tạo ra tình trạng bỏ ngõ miền Nam, trong lúc cuộc chiến Quốc-Cộng đang ở trong giai đoạn gay go có tính cách quyết định.
Đón bắt ngay thời cơ. Bắc Việt núp dưới bóng cờ ‘’mặt trận giải phóng miền nam’’, với sự trợ giúp của khối cộng, đưa lực lượng võ trang xâm nhập chiếm cứ nhiều vùng thôn quê, truy diệt các thành phần quốc gia chống cộng ở hạ tầng cơ sở xã ấp. Họ mở nhiều cuộc tấn công tàn bạo gây nhiều tổn thất vật chất và tinh thần cho Quân Đội và nhân dân miền Nam. Trong khi đó, tại Thành Thị cảnh xáo trộn xảy ra mỗi ngày. Tình hình an ninh chung suy đồi đến mức nguy ngập.
Tình trạng chín mất một còn của miền Nam đem đến cho Đồng Minh Hoa Kỳ cơ hội đưa quân vào ‘’cứu gỡ’’ và điều khiển cuộc chiến. Đất nước Việt Nam biến thành võ đài của cuộc đọ sức Tư Bản-Cộng Sản kéo dài gần 12 năm, vì sự tranh giành quyền lợi và ưu thế chiến lược của các siêu cường. Một cuộc đọ sức tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của 58000 thanh niên Hoa Kỳ, gần 5000 thanh niên các nước Đồng Minh Thái Lan, Úc, Tân Tây Lan, Đại Hàn, chưa kể số bị thương tật, Việt Nam Cộng Hòa hơn 220000 Chiến Sĩ hy sinh chưa kể số bị thương tật, gần 1. 500000 thường dân bị chết và bị thương nặng, nhẹ. Tại miền Bắc, theo sự tiết lộ của tướng Võ nguyên Giáp, tính đến sau trận Tết Mậu Thân (1968) quân đội miền Bắc đã bị thiệt hại 800000 người, chưa tính đến số bộ đội bị thương và số thường dân bị tử vong và thương tật, số này có tài liệu nói đến con số trên 3000000 người. Riêng Hoa Kỳ còn phải gánh chịu 300000 người thương tật, và chỉ tiêu trung bình mỗi ngày 1. 500000 đô la cho chiến trường Việt Nam vào thời điểm 1972.
Và cuộc đọ sức kinh hoàng này chỉ được chấm dứt, sau khi đất nước Việt Nam nhỏ bé đã phải hứng chịu một số bom đạn nhiều gấp 3 lần rưỡi số bom đạn Hoa Kỳ đã sử dụng trong trận Đệ Nhị Thế Chiến, và sự thống trị của chủ nghĩa Cộng Sản trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Sau khi đọc Bản Phúc Trình của Phái Đoàn Tìm Hiểu Sự Việc của Liên Hiệp Quốc về lời tố cáo vi phạm nhân quyền tại Việt Nam của chế độ Ngô Đình Diệm, Thượng Nghị Sĩ Thomas J. Dodd Chủ Tịch Ủy Ban Tư Pháp Thượng Viện Hoa Kỳ, đã viết thơ yêu cầu Thượng Nghị Sĩ Chủ Tịch Ủy Ban Nội Vụ cho phổ biến Phúc Trình này. Trong thơ có đoạn viết: ‘’Giờ đây chúng ta lại là nạn nhân của một sự lừa dối khác. . . ’’.
Chính sự lừa dối này và số người nhiều tham vọng nhưng ít lòng yêu nước, tự biến mình thành công cụ của các thế lực ngoại bang, đã đổ xuống trên đầu nhân dân Hoa Kỳ và nhất là nhân dân Việt Nam bất kể tôn giáo, đảng phái, Cộng Sản hay chống cộng, những thảm họa khủng khiếp kể trên.
Người Việt Nam luôn mang trong mình niềm Tự Hào là một Dân Tộc đã có hơn bốn ngàn năm Văn Hiến, một Dân Tộc có một kho tàng tinh thần vô giá: Luôn tôn trọng Lễ Giáo, Hiền Hòa, yêu chuộng Hòa Bình và lẽ Công Bằng.
Đặt trên nền tảng Tự Hào và Tinh Thần ấy, chúng tôi hy vọng những dữ kiện được ghi lại trong tập sách nhỏ này sẽ được quý độc giả, đặc biệt là quý sử gia, các nhà nghiên cứu đón nhận như những đốm sáng. Đốm sáng tuy rất nhỏ, nhưng chúng tôi tin rằng nó có thể giúp cho công trình tìm kiếm, khám phá những Sự Thật còn bị ẩn giấu, che đậy mà quý vị đang tiến hành, được dễ dàng hơn, bớt được phần nào khổ nhọc. Và từ khám phá ấy quý vị sẽ có những nhận xét, phê phán công bằng, chính xác về:
- Thực chất những biến động được diễn biến dưới nhiều hình thức, được khởi sự từ những ngày tháng cuối cùng của chế độ Đệ I Cộng Hòa và cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975. . .
- Hậu quả của những biến động ấy.
- Thủ phạm đã gây ra các biến động mở đầu những trang sử Việt Nam được viết bằng máu và nước mắt của hàng triệu con dân Việt Nam, của hàng trăm ngàn thanh niên, cô nhi quả phụ Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh. Và nó còn đem lại cho Hoa Kỳ mối nhục lịch sử: Lần đầu tiên bại trận kể từ khi lập quốc.
Theo thiển ý của chúng tôi, vì chỉ có những nhận xét, phê phán công minh của quý vị, mới có đủ sức mạnh:
- Xua tan màn khói ‘’lừa dối’’ đã che phủ Sự Thật từ bao nhiêu năm qua.
- Hóa giải nỗi oan khiên của bao oan hồn mà hình hài đã bị vùi lấp rải rác khắp nơi, từ thành thị, thôn quê đến núi rừng, sông biển Việt Nam.
- Tái tạo tình đoàn kết ruột thịt giữa mọi người Việt Nam bất kể tôn giáo, tín ngưỡng đảng phái, giai cấp từ Nam chí Bắc.
- Giúp cho các thế hệ mai sau thấy được Sự Thật, tránh được những sai lầm của cha ông, xóa bỏ được những hận thù vô bằng do một âm mưu thâm độc được cả bạn lẫn thù hợp lực tạo ra. Nhờ đó, các thế hệ này có thêm vô tư, sáng suốt, không biến mình thành công cụ cho bất cứ thế lực nào trong khi gánh vác trách nhiệm phục vụ Quê Hương, Dân Tộc hay Tập Thể.
Được như vậy, Dân Tộc Việt Nam mới có được nguồn sức mạnh có khả năng triệt tiêu thủ phạm tạo ra cuộc sống tối tăm, tù hãm, bất công triền miên cho Dân, cho Nước. Tình trạng Nghèo đói, Lạc hậu, Chậm tiến.
Nhờ đó, tương lai Đất Nước mới mong thoát khỏi vòng lệ thuộc, và đồng bào mới được bảo đảm không bị vướng mắc vào những hệ lụy bi thảm một cách oan uổng.
Ước gì con dân Việt Nam ở khắp nơi sớm được thấy ngày Đại Phúc ấy.



HẾT

Nguyễn Văn Minh



vnthuquan

felixn
03-15-2009, 11:36
Dù cho ông Cẩn có tốt đi nữa nhưng một người học vấn chưa hết tiểu học, không có chức vụ chính thức nào trong chính quyền mà nghiễm nhiên nắm quyền cả miền Trung, đến cả các Tỉnh trưởng, Tướng Tư lệnh Quân đoàn cũng phải đến xin lệnh là một việc quái gở trong một thể chế dân chủ . Chỉ riêng việc này cũng đủ là bằng chúng cho lời kết tội "gia đình trị" rồi, vì ông Diệm không thể không biết quyền lực của ông em út của mình nhưng ông vẫn cứ để vậy, nếu không vì bênh anh em thì gọi là gì . Ông Thục, là một chức sắc tôn giáo không dính gì đến chính quyền, vậy mà quyền lực bao trùm cả tổng thống, cứ xem lễ Ngân khánh của ông các tỉnh trưởng, tướng lãnh, nghị sĩ, bộ trương.....dâng lễ mừng là đủ hiểu rồi . Tại sao họ làm vậy với một chức sắc tôn giáo nếu người đó không phải là anh tổng thống . Những hành động tàn ác của ông Cẩn là có thật, bao nhiêu nhân chứng vẫn còn sống, tác giả đâu thể biện minh như vậy đươc. Không phải chỉ ông Cẩn, ông Thục, hầu như tất cả anh em ông Diệm đều thâu tóm quyền lực quốc gia, ai không biết bà Cả Lễ là trùm gạo ngoài Trung, người ta còn nói bà bán gạo cho VC, ông bà Nhu thì khỏi nói, nội câu tuyên bố của bà Nhu về vụ HT Thích Quảng Đức là đủ hiểu : "Họ nướng thịt sư.....". Làm sao bà dám nói thế nếu không vững tin vào quyền lực của mình rằng sẽ không ai dám làm gì bà .
Thời ông Diệm đúng là thanh bình, sung túc hơn sau này nhưng đó không phải là nhờ công lao ông Diệm hay tính tốt của các anh em ông mà đúng ra là nhờ CS Bắc Viêt. Lúc đó Bắc Việt chưa phát động tấn công quy mô như sau này, chiến tranh chỉ là lẻ tẻ du kích nên đương nhiên thời ông Diệm phải thanh bình hơn, nếu Bắc Việt tấn công vào thời đó như sau này thì thời ông Diệm cũng sẽ vậy thôi không chừng còn tệ hơn!
Lúc đó chưa có sự xâm lăng trực tiếp của miền Bắc mà tình hình quân sự đã căng thẳng lắm rồi đến nổi Mỹ phải tính toán đến chuyện đưa quân vào để chống đỡ miền Nam khỏi sụp đổ . Vậy nếu Bắc Việt tấn công thì sao, thì có lẽ VNCH đã mất từ 63 rồi chứ không phải đến năm 75!
Ông Diệm cũng không phải là không có điểm tốt nhưng nâng ông lên như một nhà lãnh đạo tài ba là quá phóng đại, anh em ông Diệm thì có lẽ ngoại trừ ông Luyện là không có scandal nào còn ngoài ra toàn là bọn tham quyền cố vị, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ chưa xử bắn là may, tốt lành gì mà ca tụng!

U minh cốc phó
03-15-2009, 13:32
Ông Diệm cũng không phải là không có điểm tốt nhưng nâng ông lên như một nhà lãnh đạo tài ba là quá phóng đại, anh em ông Diệm thì có lẽ ngoại trừ ông Luyện là không có scandal nào còn ngoài ra toàn là bọn tham quyền cố vị, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ chưa xử bắn là may, tốt lành gì mà ca tụng!
Hè hè...............anh bọn nài nóai đúng đóa "tốt lành zì mừ ka tụng" Níu mún ka....tụng thì hãy ka....tụng đảng zà nhà lướk ta mí phải chớ, nào là anh minh sáng sút zì đã kết thân mí ĐẠI HÁNG, để cho ĐẠI HÁNG nhập cảnh mừ hổng kần VISA (trong khi Việt kiều thì phở tốn chiềng thí mụ nội lun), nào là tài 3 lỗi lạk zì đã "nhận ra" được là nên theo nền kinh tế thị trường (nhưng hổng wên định hướng xã nghĩa) mà nền kinh tế đó đã kó từ mấy chục năm trước rầu he he he he..................kòn, kòn nhìu thứ tuyệt zời khác mừ đảng zà nhà lướk ta chưa phô ra thui. Nài, anh bọn ơy ! nên theo đảng zà nhà lướk ta đê he he he he.......

felixn
03-16-2009, 11:32
Hề hề hề....Ông bạn chắc chủ tiệm bán mũ, mới tung chiêu là quăng ngay cái mũ rồi . Nhưng cũng thông cảm cho ông bạn, lý luận quá tệ thì phải chơi chiêu chụp mũ thôi . Không khoái ông Diệm hay anh em ông là CS? Hề hề...Kiểu này coi bộ Vẹm cũng khá đông à nhe! TT Thiệu dù cho tuyên bố :"Đừng nghe ......" thì ra là xạo vì lão chính là vem. Người Mỹ tiếp tay cho đảo chánh Diệm thì ra bây giờ mới biết bọn Mẽo là cùng phe với vem.....Còn cái mũ nào nữa không huynh, chơi luôn đi bệnh gì mà cử! Sao thấy huynh chơi chiêu gì giống vẹm quá, ý ta là đỉnh cao trí tuệ, ai không đồng ý có nghĩa là địch....hay không chừng huynh chính là..hề hề hề

U minh cốc phó
03-16-2009, 15:41
Hề hề hề....Ông bạn chắc chủ tiệm bán mũ, mới tung chiêu là quăng ngay cái mũ rồi . Nhưng cũng thông cảm cho ông bạn, lý luận quá tệ thì phải chơi chiêu chụp mũ thôi . Không khoái ông Diệm hay anh em ông là CS? Hề hề...Kiểu này coi bộ Vẹm cũng khá đông à nhe! TT Thiệu dù cho tuyên bố :"Đừng nghe ......" thì ra là xạo vì lão chính là vem. Người Mỹ tiếp tay cho đảo chánh Diệm thì ra bây giờ mới biết bọn Mẽo là cùng phe với vem.....Còn cái mũ nào nữa không huynh, chơi luôn đi bệnh gì mà cử! Sao thấy huynh chơi chiêu gì giống vẹm quá, ý ta là đỉnh cao trí tuệ, ai không đồng ý có nghĩa là địch....hay không chừng huynh chính là..hề hề hề
He he he he he..........Tui là kọng sảng chính tông nà, mũ miếk zì ở đây ông oai ! mà, kọng sản tụi tui chỉ wen ra lịnh thui, ra lịnh hổng đượk thì zụ zỗ, zụ zỗ hổng đượk nữa thì phá họai chơy chơy zậy đóa he he he he..........tui thấy ý kín kủa đại k kó zẻ hổng thík gia đình ông Diệm, thía thỳ tại sao lại hổng theo kọng sảng tụi tui đi, hàng thơm lém, nóai hụych tẹc ra thì tui là 1 thèng kọng sảng nằm zùng nà hé hé hé..........kọng sảng tụi tui họk hổng bi nhiu mừ hành là chính, tui vì ăn lộk kủa đảng zà nhà lướk ta - vì tốy ngày chỉ lo ăn nhậu, chơy gái...v.v.....nên ný nuận chả ra ký zì kả, nhưng đượk kái nà nắm kủa, nên đi phá rối kộng đồng chơy chơy zậy đóa he he he.................Tui kũng chả kần đại k thông kảm mầng chi, thời ông Diệm thì tự do báo chí tha hồ đăng bất kứ tin zì, chứ bi zờ koai koai thèng ku nào zám nàm như thía, ông cho kách chứk, đếm lịch mút mùa he he he........tui thấy nên thông kủm cho đại k thì đúng hơn đóa

hqvnch-btl
03-16-2009, 16:24
Nầy người anh em felixn!
Phán xét hoặc đánh giá về Ông Ngô Đình Diệm hay Hồ Chí Minh là nhiệm vụ của LỊCH SỬ, không phải của bạn hay của bất cứ ai . Tuy nhiên, chúng ta là những người đã sống và đã chứng kiến một giai đoạn lịch sử, do đó chúng ta là những NHÂN CHỨNG của lịch sử . Nghĩa vụ và lương tâm của một nhân chừng trước tòa án là phải nói lên SỰ THẬT, tất cả SỰ THẬT, và chỉ có SỰ THÂT. Cái sự thật giữa Ông Diệm và họ Hồ, giữa chế độ của Ông Diệm và chế độ của "Bác" đến cây cột đèn cũng còn có thể biết được, há chẳng lẽ người anh em không biết hay sao ? Với tư cách là nhân chứng lịch sử, trước tòa án lịch sử, bạn đã cố tình che dấu và phủ nhận sự thật lịch sử thì bạn đã phạm vào tội làm chứng gian (to bear false witness); mà hậu quả của tội làm chứng gian dưới các luật pháp của xã hội văn minh mà bạn đang sống không phải tầm thường đâu nhẹ

felixn
03-16-2009, 17:18
Huynh chơi đao to búa lớn quá, tôi chỉ góp ý kiến thôi chớ có phán xét gì đâu, con của tôi mà tôi còn chưa phán xét được làm sao dám phán xét ai . Nhưng góp ý thì ai cũng góp ý được, đề tài gì cũng góp được, đúng không ? Tôi chê chế độ Diệm huynh không chịu, vậy nếu tôi khen thì được không, chắc được chứ gì ? Hì hì hì ......vậy theo huynh thì ở đây chỉ được khen còn chê thì no way, chơi vậy chơi với ai đại ca ? Một cái nữa là huynh nhét chữ vào mồm tôi rồi, tôi có so sánh ông Diệm với ông Hồ, chế độ Diệm với chế độ CS hồi nào đâu mà tự dưng huynh phán bừa vậy ? Còn cố tình che dấu và phủ nhận lịch sử thì không chừng chính huynh cũng mắc đó nha, chẳng hạn ông Cẩn thất học mà cầm quyền sinh sát toàn bộ miền Trung là chuyện con nít cũng biết, huynh không tin về hỏi lại ông bà già huynh xem! Ngày ông Diệm đổ, dân chúng ùa ra đường hoan hô các người lính, giật sập tượng Hai Bà Trưng vì cho là làm theo hình ảnh mẹ con bà Nhu, có hay không ? Huynh bênh ông Diệm nên cái gì bất lợi cho ông Diệm thì lờ đi, ở đây ai là người làm chứng gian ?

U minh cốc phó
03-16-2009, 19:45
Huynh chơi đao to búa lớn quá, tôi chỉ góp ý kiến thôi chớ có phán xét gì đâu, con của tôi mà tôi còn chưa phán xét được làm sao dám phán xét ai . Nhưng góp ý thì ai cũng góp ý được, đề tài gì cũng góp được, đúng không ? Tôi chê chế độ Diệm huynh không chịu, vậy nếu tôi khen thì được không, chắc được chứ gì ? Hì hì hì ......vậy theo huynh thì ở đây chỉ được khen còn chê thì no way, chơi vậy chơi với ai đại ca ? Một cái nữa là huynh nhét chữ vào mồm tôi rồi, tôi có so sánh ông Diệm với ông Hồ, chế độ Diệm với chế độ CS hồi nào đâu mà tự dưng huynh phán bừa vậy ? Còn cố tình che dấu và phủ nhận lịch sử thì không chừng chính huynh cũng mắc đó nha, chẳng hạn ông Cẩn thất học mà cầm quyền sinh sát toàn bộ miền Trung là chuyện con nít cũng biết, huynh không tin về hỏi lại ông bà già huynh xem! Ngày ông Diệm đổ, dân chúng ùa ra đường hoan hô các người lính, giật sập tượng Hai Bà Trưng vì cho là làm theo hình ảnh mẹ con bà Nhu, có hay không ? Huynh bênh ông Diệm nên cái gì bất lợi cho ông Diệm thì lờ đi, ở đây ai là người làm chứng gian ?
He he he..............kọng sảng tụi tui chơy đao bự búa lớn wen rùi, tui thì kũng chỉ góp ý thui, chứ có nhét chữ hay nhảy zô họng ai đâu nà, không kọng sảng sao mừ đại k nóai chiệng zống kọng sảng thía nhở, đại k chê chế độ ông Diệm tui kàng mừng chớ sao lại không chịu, hay là đại k thík nóai ngược zống kọng sảng tụi tui sao ?, khen hay chê 1 chế độ là chiệng kủa mọi người tui đâu kấm, mà zù kó kấm kũng kó được đâu, đây là in tơ lét mà.
Lại nóai bậy lữa zồi, chuyện "...chẳng hạn ông Cẩn thất học mà cầm quyền sinh sát toàn bộ miền Trung là chuyện con nít cũng biết...." kon nít ăn chưa no lo chưa tới thì mầng sao mừ biết, nếu kó thì kũng zo người lớn nóai cho bít, zới lại, chuyện báo chí tự do thời đó thì nàm thao tránh khỏi những chuyện bêu xấu những người đối lập chớ, phải hông nà. Kứ như giàn báo chí, truyền thông trong nướk bi zờ koai, kó thèng ku nào zám bêu xấu 1 thèng kông an xã cắc ké không, zù cho tội trạng kủa nó đã rõ 10 mươi he he he..............Ngày VNCH đổ, dân chúng kũng ùa ra đường ý chứ, hổng chừng trong đó kũng kó đại k nữa đóa, tui chỉ đang chiêu zụ đại k za nhập kọng sảng đó thui. Tui nào bênh ông Diệm đâu, đang sống zới kọng sảng tui được zàu kó, đè đầu kỡi kổ dân chúng sướng tê người lun, bênh ổng tui đượk zì lào, hay là chỉ đượk những lời "vàng ngọc" kủa đại k hả he he he he........

babymonkey
06-02-2009, 05:55
thanks. tớ không bình luận gì cả . các tài liệu và hồi ký này rất hay để chúng ta biết và hiểu thêm về sự thật lịch sự anh em dừng chửi rủa nhau mà mất đoàn kết nhé . cám ơn đã chia sẻ

2Kool4Mi
11-07-2010, 13:19
*** Đạo Giáo đã khiến cho chúng ta mất nước vào tay việt gian CS và ngày nay đang bị đô hộ tinh vi của Tàu. Nếu người CG và PG không cùng nhận những lỗi lầm của mình qua những diễn biến "Chiến Tranh Tôn Giáo", lấy đó làm bài học để ngoại bang và Ngụy vgCS không thể dùng đòn đê tiện "chia rẽ Tôn Giáo" mà tiêu diệt dân ta thì ngàn năm nữa dân Việt cũng không thể ngóc đầu lên được mà chỉ còn sống và hy vọng trong tuyệt vọng qua đọc kinh, niệm Phật.



Xin trích 1 phần của Tác giả Nguyễn Văn Minh
=============================
- Thủ phạm đã gây ra các biến động mở đầu những trang sử Việt Nam được viết bằng máu và nước mắt của hàng triệu con dân Việt Nam, của hàng trăm ngàn thanh niên, cô nhi quả phụ Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh. Và nó còn đem lại cho Hoa Kỳ mối nhục lịch sử: Lần đầu tiên bại trận kể từ khi lập quốc. Theo thiển ý của chúng tôi, vì chỉ có những nhận xét, phê phán công minh của quý vị, mới có đủ sức mạnh:

- Xua tan màn khói ‘’lừa dối’’ đã che phủ Sự Thật từ bao nhiêu năm qua.

- Hóa giải nỗi oan khiên của bao oan hồn mà hình hài đã bị vùi lấp rải rác khắp nơi, từ thành thị, thôn quê đến núi rừng, sông biển Việt Nam.

- Tái tạo tình đoàn kết ruột thịt giữa mọi người Việt Nam bất kể tôn giáo, tín ngưỡng đảng phái, giai cấp từ Nam chí Bắc.

- Giúp cho các thế hệ mai sau thấy được Sự Thật, tránh được những sai lầm của cha ông, xóa bỏ được những hận thù vô bằng do một âm mưu thâm độc được cả bạn lẫn thù hợp lực tạo ra. Nhờ đó, các thế hệ này có thêm vô tư, sáng suốt, không biến mình thành công cụ cho bất cứ thế lực nào trong khi gánh vác trách nhiệm phục vụ Quê Hương, Dân Tộc hay Tập Thể.
=============================

conthuyenkhongben
02-06-2011, 18:40
Cụ Diệm và ông Nhu chết vì bởi 3 nguyên nhân; Đồng minh Mỹ vì muốn đem quân vào miền Nam,CSVN ném đá dấu tay bôi nhọ xuyên tạc chế độ và bọn tướng lãnh phản bội, ngu xuẩn háo danh hèn hạ cùng một số trí thức ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sạn Thảo nào cs bảo trí thức chưa bằng một cục phân vì có học mà ngụ Ông Cẩn nếu là người độc ác thì tên thượng tọa Thích trí Quang không dể gì sống ung dung mà xách động Phật Giáo chống phá chính phủ quôc gia do csvn giật dậy Cho rằng ông Cẩn là người học kém mà làm cố vấn cho cả miền Trung, thử hỏi ông Hồ học đến lớp mấy mà lănh đạo cả nửa nước VN thời bấy giờ ? Xét về đạo đức và nhân cách ông Diệm hơn hẳn ông Hồ vì ông Hồ có nhiều quan hệ bất chánh với phụ nử đến khi lây vợ lại giết vợ đẻ con lại bỏ con một vị lãnh tụ có cung cách sông như vậy nếu ai có lương tâm thử hỏi mấy ai dám tin rằng ông ấy thực lòng thương yêu các cháu thiếu niên và nhi đổng ? Chính ông là người đề xướng và giáo dục cán bộ thường xuyên về ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG phải chăng những gì ông nói thì một đàng mà làm lại là một nẻo ? Đã vậy ông tự xưng là CHA GIÀ DÂN TỘC, lẽ nào ông đẻ cả Bố ông ra tức là cụ Nguyễn Sinh Sắc. Vua Hùng có công dựng nước, những bậc anh hùng tổ tiên của nòi giống Việt có công giử nước cho nên chúng ta mới có mãnh đất VN ngày nay mà tôi chưa hề nghe những người này tự nhận là cha già dân tộc bao giờ .Theo sự suy nghỉ thô thiển và thấp kém của cá nhân tôi thì ông Hồ chỉ giống ông Diệm ở mổi một điểm đó là khi chết hai ông không hề có của cải tiền bạc và tài sản tham ộ . Rất cám ơn tác giả đã viết rất trung thực về mình và nền đệ I của chế độ VIỆT NAM CỘNG HỌA

anhtanny33
02-06-2011, 21:21
Huynh chơi đao to búa lớn quá, tôi chỉ góp ý kiến thôi chớ có phán xét gì đâu, con của tôi mà tôi còn chưa phán xét được làm sao dám phán xét ai . Nhưng góp ý thì ai cũng góp ý được, đề tài gì cũng góp được, đúng không ? Tôi chê chế độ Diệm huynh không chịu, vậy nếu tôi khen thì được không, chắc được chứ gì ? Hì hì hì ......vậy theo huynh thì ở đây chỉ được khen còn chê thì no way, chơi vậy chơi với ai đại ca ? Một cái nữa là huynh nhét chữ vào mồm tôi rồi, tôi có so sánh ông Diệm với ông Hồ, chế độ Diệm với chế độ CS hồi nào đâu mà tự dưng huynh phán bừa vậy ? Còn cố tình che dấu và phủ nhận lịch sử thì không chừng chính huynh cũng mắc đó nha, chẳng hạn ông Cẩn thất học mà cầm quyền sinh sát toàn bộ miền Trung là chuyện con nít cũng biết, huynh không tin về hỏi lại ông bà già huynh xem! Ngày ông Diệm đổ, dân chúng ùa ra đường hoan hô các người lính, giật sập tượng Hai Bà Trưng vì cho là làm theo hình ảnh mẹ con bà Nhu, có hay không ? Huynh bênh ông Diệm nên cái gì bất lợi cho ông Diệm thì lờ đi, ở đây ai là người làm chứng gian ?

noi rat dúng . su muón biet ve ngo dinh diem thi hay doc cuon viet nam mau lua que huong toi thi se ro vẻ ngo dinh diem .