PDA

View Full Version : Nhật Tiến: Có hay không có một nền "Văn Học Đô Thị miền Nam" ???



Đỗ Phương Khanh
07-15-2014, 18:25
.

Có hay không có
một nền "Văn Học Đô Thị miền Nam" ???



Mấy tháng gần đây nhiều người nhận thấy đang có một cuộc vận động (ở cả trong lẫn ngoài nước) về việc mời tham dự, đóng góp ý kiến và cung cấp tài liệu..v... v..để Văn đoàn Độc lập VN sẽ thực hiện một mục mới dự định lấy tên là “Văn Học Đô Thị Miền Nam” sẽ xuất hiện trên trang blog vandoanviet.blogspot.com thuộc website vanviet.info.

Một trong những người được tham khảo ý kiến cùng với lời yêu cầu hỗ trợ cho công trình này là nhà văn Nhật Tiến, hiện cư ngụ ở Nam California.

Dưới đây là Bản văn kêu gọi thực hiện Mục “Văn Học Đô Thị Miền Nam (chưa công khai phổ biến rộng rãi),và thư trả lời của nhà văn Nhật Tiến.

Vì tính cách hệ trọng của vấn đề, chúng tôi xin đăng tải lại để quý độc giả quan tâm có thêm tài liệu tham khảo và nếu có thể, đóng góp thêm ý kiến.


***


Văn Việt mở mục
“Văn học đô thị miền Nam 1954-1975”

Trang Văn Việt, tiếng nói của Ban Vận Động Văn Đoàn Độc Lập VN, đã nêu rõ ràng slogan “Vì một nền văn học Việt Nam đích thực”. Đấy là nguyện vọng tha thiết, là chương trình lớn, lâu dài và cốt yếu của chúng ta khi vận động thành lập VĐ. Một trong những điều kiện hàng đầu của một nền văn học như vậy là nó phải tiếp nối được một cách sáng tạo toàn bộ thành tựu văn học quá khứ của dân tộc, đặc biệt là toàn bộ giá trị văn học đã được tạo nên trên đất nước này trong suốt thế kỷ qua. Bỏ sót bất cứ mảng nào trong bức tranh tổng thể đó đều là thiếu sót tai hại và với độ lùi lịch sử ngày càng không thể chấp nhận. Tuy nhiên, như tất cả chúng ta đều biết, do những điều kiện không bình thường, một bức tranh như vậy lâu nay đã thật sự bị phiến diện. Một mảng lớn và quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ XX, là Văn học đô thị miền Nam 1954-1975, đã bị gạt vào quên lãng. Không chỉ những giá trị đặc sắc nhất của khu vực văn học này gần như hoàn toàn bị che lấp đối với công chúng, kể cả với những người cầm bút ngày nay, mà những hiểu biết và nhận định hoặc về toàn bộ mảng văn học này, hoặc về từng tác giả và tác phẩm của nó thường bị thiên lệch nặng nề vì những định kiến ý thức hệ dai dẳng. Trong khi dù song song với những mảng văn học khác cùng thời, do những điều kiện riêng biệt, chính ở đây lại đã có thể có những thành tựu, cả qua sáng tạo tác phẩm và trong không gian sinh hoạt văn học, rất đáng suy nghĩ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực hôm nay. Chẳng hạn, do không bị quá cách biệt, đến cắt đứt hẳn với các trào lưu văn học thế giới đương thời, văn học đô thị miền Nam 1954-1975 đã có trải nghiệm và tạo được một số kinh nghiệm đáng kể về hội nhập, là điều thiết yếu của một nền văn học mong muốn thật sự hiện đại cùng nhân loại và thời đại …

Khôi phục được khuôn mặt trung thực của mảng văn học quan trọng này, đặt nó trở lại đúng vị trí trong bức tranh toàn diện của di sản văn học gần của chúng ta rõ ràng là công việc hết sức cần thiết, song cũng cần rất công phu và khó khăn. Văn Việt xin cố gắng góp phần tối đa của mình, cùng các tác giả, các nhà nghiên cứu tâm huyết trong và ngoài nước lâu nay.

Chúng tôi mong những nhà văn từng thuộc khu vực văn học này đến nay còn sống, gia đình và bằng hữu các nhà văn đã mất, các nhà nghiên cứu phê bình cho phép chúng tôi được sử dụng tác phẩm của quý vị trong chương trình này của Văn Việt. Mong bạn đọc Văn Việt giúp đỡ chúng tôi tư liệu, góp ý kiến về cách thức tiến hành để chương trình này, mà chúng tôi mong sẽ là một chương trình chung sức của tất cả chúng ta, được hoàn thiện, phong phú, hấp dẫn.

Trong điều kiện thực tế và không cầu toàn, trong khi chờ đợi những đóng góp từ quí vị, mục “Văn học Đô thị Miền Nam 1954-1975” sẽ dần dần đăng lại những bài nghiên cứu và những tác phẩm quan trọng mà chúng tôi có được từ các nguồn khác nhau,

Vì một nền văn hoc Việt Nam đích thực!

VĂN VIỆT


***

Trả lời nhà Thơ Hoàng Hưng
về việc mời tham dự Mục Văn Học Đô Thị Miền Nam
sẽ mở trên blog vandoanviet.blogspot.com thuộc Văn đoàn Độc lập VN


T/g anh Hoàng Hưng,

Tôi đã nhận được email của anh gửi, mà nội dung là thư mời đóng góp ý kiến và bài vở cho một mục có tên là “VH Đô Thị Miền Nam1954-1975” sẽ được thực hiện trên trang blog vandoanviet.blogspot.com thuộc website vanviet.info của Văn đoàn Độc lập VN mà trong đó anh là một thành viên chính.

Thưa anh,

Thế nào là “Văn Học Đô Thị Miền Nam ” ?

Cái từ ngữ này khiến tôi không khỏi nhớ đến guồng máy tuyên truyền của miền Bắc ở vào thời kỳ cuộc chiến VN chưa chấm dứt. Họ đã gọi các sinh hoạt trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa là “ trên các tỉnh và Đô thị Miền Nam”, với ý nghĩa là "bọn Mỹ Ngụy chỉ co cụm trong các thành phố và không thể lui tới các các Nông thôn ở miền Nam, vì tất cả đã đồng loạt nổi dậy và đã đứng dưới ngọn cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam".

Về mặt sách lược tuyên truyền trong cuộc chiến, luận điệu gian dối, hàm hồ ấy có thể hiểu được. Nhưng nay chiến tranh đã chấm dứt gần 40 năm rồi, cái từ ngữ “Đô thị Miền Nam” tưởng đã bị chôn vùi theo các thứ rác rưởi lùm loạp của một giai đoạn trong lịch sử, ai ngờ bây giờ nó lại được lôi ra dùng lại, không phải do từ các bàn tay phù thủy tuyên truyền thực hiện, mà là do chính các nhà văn đã từng mạnh mẽ lên tiếng : “mong muốn góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi. “
( trích bản Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam)

Thưa anh Hoàng Hưng,

Dĩ nhiên là bao giờ tôi cũng hết lòng mong mỏi quý anh luôn có được toàn quyền tự do trong các sinh hoạt văn hóa, nhất là trong lãnh vực sáng tác. Tuy nhiên điều đó cũng không thể buộc lòng chúng tôi cứ phải chạy theo mọi lời kêu gọi nhân danh tự do văn hóa. Qua cái từ ngữ được quý anh sử dụng “Văn Học Đô thị Miền Nam”, chúng tôi như đã bị đánh thức dậy bởi cái mùi vị khinh bỉ, miệt thị, kể cả những hận thù do chính rất nhiều thành phần có tính cách văn hóa đến từ miền Bắc mang lại. Và trên danh nghĩa của "những tên tội đồ mang cái án tay sai của Mỹ Ngụy", chúng tôi đã bị phân biệt đối xử trong ròng rã bao nhiêu năm trời, ngay sau cuộc chiến.

Nhắc lại chuyện này không phải tôi cố khơi lại những hận thù. Nhưng tôi phải khẳng định rằng không bao giờ chúng tôi thuộc vào hàng ngũ của cái gọi là “Văn Học Đô Thị Miền Nam ” .

Trong suốt chiều dài của hơn 20 năm lịch sử VN (1954-1975), nước VN bị chia cắt thành 2 quốc gia hoàn toàn khác biệt : Ở miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và ở miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm mọi đất đai kể cả nông thôn lẫn thành thị, trải dài từ Sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu và các vùng núi non lẫn hải đảo.

Trong suốt thời gian ấy, chúng tôi, các học giả, các vị trí thức, các Thầy Cô Giáo và các văn nghệ sĩ….đã góp công tạo dựng một nền văn hóa của miền Nam trong đó có bộ phận văn học vẫn thường được gọi là “Văn Học Miền Nam 1954-1975.

Không bao giờ tồn tại cái gọi là “Văn Học Đô Thị Miền Nam”, chỉ có ''toàn bộ ngành sáng tác văn học nghệ thuật của Việt Nam Cộng Hòa trên khắp lãnh thổ, từ nông thôn tới đô thị'' mà thôi.

Vậy xin minh xác để mọi người cùng rõ.
NHẬT TIẾN California ngày 9-7-2014


THƯ SỐ 2


T/g Nhà thơ Hoàng Hưng,

Có vẻ như nhà thơ và quý hữu còn có vẻ vẫn đang bị đè nặng vì cái gông của những dối trá trong lịch sử cận đại. Một trong những sự kiện dối trá cụ thể mà tôi đã chứng kiến, đó là những cuốn sách Giáo Khoa của Mặt Trận Giải Phóng in ở Trung Quốc (viết theo hệ 12 với dụng ý dùng cho học sinh miền Nam).

Những cuốn này được in từ năm 1965, hẳn là để chuẩn bị cho chiến thắng Tết Mậu Thân. Nhưng Mậu Thân thất bại, sách phải xếp xó. Mãi đến tháng 4-1975 mới thấy xuất hiện trong hàng ngũ giáo viên thì cũng đã lại bị đào thải ngay vì chủ trương của Lê Duẩn lúc đó là xóa sổ MTGPMN, do đó không thể cho phổ biến sách GK mang nhãn hiệu Chính phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam VN được.

Các nhà in ở Saigon hồi đó đã phải chạy với công suất tối đa để trám lỗ hổng cũng mang tính chất dối trá này của lịch sử!

Sự kiện này đã chứng tỏ rằng trên mọi phương diện dù là văn hóa hay giáo dục, quân sự hay chính trị, và có xuất xứ từ những con bài do chính họ đẻ ra, khi cần, tất cả cũng vẫn bị sổ toẹt. Như thế, làm gì có một thứ văn học trung thực ở vùng MTGPMN, cần phải được gìn giữ. Ngày nay, đâu có ai đặt vấn đề cần phải gìn giữ cái Mặt Trận ấy với những huyền thoại một thời như Nguyễn thị Bình, Nguyễn thị Định, Dương Quỳnh Hoa, Huỳnh Tấn Phát…v…vv..

Hẳn các vị ai cũng đều rất rõ (tôi tin là thế) rằng chủ trương chiếu cố miền Nam đã được Đảng CS đề ra trong Đại Hội III, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960. Website của Đảng, phần lịch sử Đảng có đoạn:

“Từ 5 đến 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã họp ở Thủ đô Hà Nội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: Từ ngày hoà bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là:

“Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông-Nam Á và thế giới”.

Rồi :

“ ... tại Đại hội lần thứ III, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị, cũng tại Đại hội này, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất.

Suốt 15 năm trên cương vị này, đồng chí cùng với Bộ Chính trị và Trung ương Đảng kiên định đường lối độc lập, tự chủ, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, sáng suốt lãnh đạo nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/details.asp?topic=104&subtopic=210&leader_topic=504&id=BT1620639885

Phải vòng vo như thế, chỉ để mong mọi người hãy bình tâm mà nhìn lại số phận của nhân dân VN:

- Nếu không có Đảng CSVN thì sau Genève, đất nước vẫn còn tồn tại với 2 thể chế như Nam, Bắc Hàn. Và miền Nam VN sẽ tiến xa chẳng thua Nam Hàn bây giờ.

- Vào thời gian Đại Hội Đảng Cộng Sản kỳ 3 họp vào tháng 9 năm 1960 ra quyết định "giải phóng miền Nam chống xâm lược Mỹ" thì:

" Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá...

Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đình Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH ....".....

Như thế, nếu không có "cái gọi là giải phóng miền Nam" thì quân đội Mỹ cũng chẳng có lý do tiến vào VN để mà "xâm lược".

- Nhà Nước VN bây giờ cũng bang giao với Mỹ như ngày xưa VNCH có bang giao, nhiều người trong quý vị cũng có con cái du học Mỹ, vậy nếu bây giờ chúng tôi gọi quý vị cũng là một thứ Mỹ Ngụy thì quý vị nghĩ sao ??

- Trong cuộc chiến, cả một guồng máy tuyên truyền của CS ở miền Bắc đã được vận dụng tối đa, kể cả những tác phẩm văn nghệ bao gồm truyện ngắn, truyện dài, phóng sự, hồi ký …viết về cuộc “nổi dậy của nhân dân miền Nam” để chống Mỹ cứu Nước, nhưng nội dung đầy dẫy những sự kiện bịa đặt, dối trá….nhằm kích động căm thù để xô đẩy thanh niên nam nữ miền Bắc nhắm mắt lao vào cuộc chiến.

Thật quá thảm và cũng quá đau thương cho cả một giai đoạn lịch sử đất nước do chính sách ngu dân của Đảng CSVN mà chứa đầy dẫy những điều dối trá, xuyên tạc.


***

Nhiệm vụ duy trì VHMN tất nhiên ai đứng ra đảm trách cũng đều đáng trân quý, nhưng với điều kiện là phải trung thực, không còn vấn vương những lập trường, tư tưởng vốn chỉ là sản phẩm tuyên truyền nhất thời do nhu cầu chiếu cố miền Nam của chế độ miền Bắc. Và như thế, cái nhu cầu phải nhắc đến "cái bộ phận "ở rừng”?" như nhà văn Hoàng Hưng đã viết trong thư trao đổi ngày 9 tháng 7-2014: “Vậy chắc chắn phải bàn lại về cái tên, tuy sẽ phải nghĩ kỹ, vì nếu để tên VHMN thì sẽ nói sao về cái bộ phận "ở rừng"? “, theo sự suy nghĩ của tôi, đã không thích hợp mà còn tạo cơ hội gây ra nhiều cuộc tranh cãi gây tổn thương đến nhiều người, như lòng tự trọng bị chà đạp, dĩ vãng đau thương vừa nguôi ngoai phần nào đã lại bị đem ra xỉ nhục, khiến cho những nỗi đau trong quá khứ bật trỗi dậy, tất cả sẽ trở thành một trở ngại lớn đối với mục tiêu cao quý mà quý vị đã trưng ra trong Bản Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam.

Ở đây, tôi chỉ nói lên những gì cần nói, không mong thuyết phục ai, cũng không trông đợi một sự “nghĩ lại” của những văn, thi hữu có trách nhiệm thực thi dự kiến này.

Cái số phận của đất nước mình nó đã thê thảm từ lâu rồi và chúng ta chỉ ra thoát khỏi cái số phận đớn đau này khi đất nước và dân tộc của chúng ta thoát ra khỏi cái bóng ma độc tài đảng trị kìm kẹp.

Và chỉ khi đó, khi cái bóng ma quá khứ biến đi hết, thì chúng ta mới có điều kiện để mà cùng nhau toan tính một cái gì chung, khả dĩ mang được ít nhiều ý nghĩa.

Nhật Tiến
10-7-2014

loner
07-15-2014, 19:08
Tui đọc tới mấy chữ tô đậm sau đây trong "lời phi lộ" của Văn Việt này là tui… "tắt lửa lòng" lạnh ngắt luôn, hết muốn tìm hiểu gì thêm về cuộc vận động này cả!

Bỏ sót bất cứ mảng nào trong bức tranh tổng thể đó…
…và với độ lùi lịch sử…
…đã thật sự bị phiến diện…
…Một mảng lớn và quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ XX…
…Không chỉ những giá trị đặc sắc nhất của khu vực văn học này…
… mà những hiểu biết và nhận định hoặc về toàn bộ mảng văn học này, hoặc về từng tác giả và tác phẩm…
…đã có trải nghiệm và tạo được một số kinh nghiệm đáng kể…

Giá mà những chữ tô đậm ở trên được thay bằng những chữ khác như dưới đây…
- Bỏ sót bất cứ thành phần (hay "khía cạnh") nào trong bức tranh toàn diện đó…
- Một thành phần (hay "khía cạnh") lớn và quan trọng của văn học Việt Nam thế kỷ XX…
- …Không những chỉ có những giá trị đặc sắc nhất của lãnh vực văn học này…
… mà kiến thức và nhận định hoặc về toàn bộ lãnh vực văn học này, hoặc về từng tác giả và tác phẩm....
- …đã trải qua và tạo được đem lại một số kinh nghiệm đáng kể…
thì thiệt là… phấn chấn tinh thần biết bao! :)

Riêng chữ "phiến diện" lại được dùng thành động từ ở đây? "Bị phiến diện"?!!! Sao không viết "chỉ là phiến diện"? Còn "độ lùi lịch sử" thì tui bóp đầu lẩm bẩm "độ lùi lịch sử…. độ lùi lịch sử… độ lùi lịch sử…" nãy giờ mấy chục lần nhưng cuối cùng cũng vẫn không hiểu mấy chữ đó có nghĩa hay có ý là gì!

Bác Đỗ Phương Khanh là nhà văn kỳ cựu từ thời VNCH ắt hiểu rất rõ tâm trạng của tui.

Đỗ Phương Khanh
07-17-2014, 10:13
.

Văn học Miền Nam
qua một bộ “văn học sử” của trong nước
Nguyễn Vy Khanh


http://luongtamconggiao.files.wordpress.com/2010/09/0609vanhocvn.jpg?w=595 (http://luongtamconggiao.files.wordpress.com/2010/09/0609vanhocvn.jpg?w=595)



Miền Nam đây là Việt Nam Cộng hòa và nền văn học của những năm 1954-1975. Văn hóa và nền văn học của miền Nam sau những cuộc thanh lọc, bắt bớ và cấm đoán, vẫn tiếp tục bị những bất thường và quái gở của một thế giới văn hoá, biên tập cố tình làm cho sai lạc. Ai cũng biết sau ngày cưỡng chiếm miền Nam 30-4-1975, văn học và văn hóa Việt Nam Cộng hòa đã bị cấm đoán, phủ nhận như thế nào qua nhiều đợt tấn công, dàn cảnh.

Nay, đã 35 năm sau, chiến thuật đó vẫn còn ở một nước Việt Nam hô hào cái gọi là ‘cởi mở’, ‘kinh tế thị trường’.

Mới đây, chúng tôi được đọc bộ Văn học Việt Nam nơi miền đất mới trên 4 ngàn trang gồm 4 tập của soạn giả Nguyễn Q. Thắng (NXB Văn Học, Hà Nội). Miền Đất Mới ở đây được soạn giả bao gồm miền Nam Lục tỉnh và miền Nam Cộng hòa; và trong các tập 3 và 4 chủ yếu vẫn là những cây viết của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm nằm vùng, ly khai, tập kết, gởi vô Nam hoặc những cây viết từng có mặt thời Việt Nam Cộng hòa nhưng sau này sinh hoạt với các hội và báo chí của Cộng sản Việt Nam.

Đặc biệt Nguyễn Q. Thắng đã xen vào đó những nhà văn của miền Nam 1954-1975, nhưng vì ông có thể nói hãy còn tuân theo một “chính sách” hay “chỉ thị” nào đó, do đó chưa thể là một bộ văn học sử đúng nghĩa – nghĩa là ghi nhận, tổng kết và phê phán các tác giả và tác phẩm như đã xuất hiện và sinh hoạt một thời.

Những phê phán, nhận xét có thể có những chủ đích chính trị:

1. Cố tình nêu sai danh tính các nhà văn Việt Nam Cộng hòa:

Ngoại trừ trong một số trích (nguyên) văn, toàn bộ sách của Nguyễn Q. Thắng không nêu đích danh các nhà văn qua các bút hiệu đã dùng, đã quen với người đọc và đã đi vào văn học sử như Mai Thảo, Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, mà lại dùng tên thật (tên khai sanh) của họ để làm tiêu đề cũng như đánh giá. Mai Thảo trở thành Nguyễn Đăng Sinh (tập 3, tr. 1233, trong khi tên thực thật của Mai Thảo là Nguyễn Ðăng Quý) với chú thích rằng phần này được làm để thông tin về sinh hoạt báo chí và thơ tự do. Nhã Ca lúc được gọi là Thu Vân, lúc lại là Trần Thị Thu Vân. Võ Phiến thành Đoàn Thế Nhơn, Trùng Dương có lúc là Trùng Dương Nguyễn Thị Thái, v.v…

Nhà văn học sử khi viết về các tác giả văn học đều phải ghi bút hiệu là chính, chỉ ở những phần tiểu sử mới nhắc đến tên thật, hoặc giả tác giả đó dùng tên thật để sinh hoạt văn học nghệ thuật thì mới ghi tên thật:

Giáo sư Nguyễn Văn Trung có các bút hiệu Hoàng Thái Linh, Phan Mai, nhưng các bút hiệu này chỉ được sử dụng hạn chế và khi xuất bản tác phẩm, tên thật của ông được ghi thì nhà viết văn học đương nhiên phải dùng tên thật của ông.

Nguyên Sa ngược lại là một nhà thơ khi ký Nguyên Sa, và khi viết sách giáo khoa triết học (Descartes nhìn từ phương Đông, Luận lý học, Luận Triết học, v.v…) thì ký Trần Bích Lan (riêng cuốn Một bông hồng cho văn nghệ ký Trần Bích Lan khi nhà Trình Bày xuất bản năm 1967; khi ra hải ngoại NXB Đời của ông tái bản thì ký Nguyên Sa); do đó khi viết về nhà thơ Nguyên Sa, người ta có thể nói đến những sách giáo khoa mà ông là tác giả, dĩ nhiên là không thể ngược lại, viết về ”nhà thơ Trần Bích Lan” vì không hề có nhà thơ Trần Bích Lan dù Nguyên Sa và Trần Bích Lan là một người.

- Lê Vĩnh Hòa được ghi trong tiểu sử là “em ruột văn sĩ Đoàn Thế Nhơn…” (tập 4, tr. 270 – từ đây các chú thích đều trích từ tập 4) – thay vì Võ Phiến!

- Về hai nhà văn Y Uyên và Doãn Dân, ông Nguyễn Q. Thắng chỉ ghi năm mất của Doãn Dân; còn Y Uyên thì “mất năm 1969 đang độ tài hoa nẩy nở”(tr. 827) nhưng không ghi rõ chết vì đạn pháo của ai (Việt Cộng!) trong khi các tay văn nghệ nằm vùng ở miền Nam vô bưng chết thì được ghi lý do chết: Lê Vĩnh Hòa thì “hi sinh trong một trận chống càn tại Long Mĩ, Xẻo Giá…” (tr. 270); Trần Triệu Luật thì “hi sinh trên đường công tác ở Tây Ninh (cùng nơi cùng ngày với) Trần Quang Long”. Trần Triệu Luật được đề cao trong một mục từ riêng (51- TTL, nhà văn chiến sĩ) cũng như Trần Quang Long (42- TQL với thi đề ‘nghiêng nón’”!

- Về Luân Hoán thì một chi tiết trong tiểu sử nếu không được nhắc đến vẫn còn hơn là ghi như Nguyễn Q. Thắng:

“Những năm 60 ông (LH) bị động viên vào quân trường Thủ Đức một thời gian rồi trở về đời sống dân sự” vì phải thêm rằng sau Thủ Đức, nhà thơ Luân Hoán ra chiến trường và bị đạn pháo “quân thù” làm mất một chân!

- Hay khi viết về nhà văn Lê Tất Điều “Sau năm 1975 ông (LTĐ) định cư (?) ở Hoa Kì và nghe đâu vẫn có tác-phẩm in ở nước ngoài” – một nhà nghiên cứu, tác giả của bao bộ sách hàng vạn trang, mà chỉ biết “nghe đâu”!

- Cũng vì nghe đâu nên mới viết về nhà văn “Hồ Trường An, dược sĩ, nhà văn” (mục từ 32):

“Từ năm 1977 định cư ở Pháp. Chưa có tác phẩm in thành sách, nhưng có nhiều truyện ngắn trên các tạp chí ở Sài Gòn trước năm 1975”.

- Còn gọi Viên Linh là “hoàng đế”, “nhà độc tài” văn học, như mục đề 28 về nhà văn Viên Linh, là hơi… quá, dù có thể cốt ý bênh cô Phương Thảo tức Vũ Hạnh. Thiển nghĩ với văn học miền Nam thời 1954-1975, Viên Linh vừa là một nhà thơ, nhà văn vừa là một chủ biên tạp chí (Thời Tập) có công, dĩ nhiên không phải công kiểu Vũ Hạnh!

2. Những thiếu sót, sai lầm có chủ đích:

Trong phần về giáo sư Nguyễn Văn Trung (tập 4, trang 7-54), mở đầu Chương 8

- Các Văn Gia Hiện Đại, Nguyễn Q. Thắng ghi rằng giáo sư Trung còn có bút hiệu Nguyễn Nam Châu. Thực ra, Nguyễn Nam Châu (bút danh Hoài Kim Yến) là một giáo sư đại học Huế những năm cuối thập niên 1950, viết nhiều bài trên tạp chí Đại Học và là tác giả những cuốn Sứ mệnh văn nghệ và Những nhà văn hóa mới (1958). Sau này ông Nguyễn Nam Châu trở về Bỉ làm giáo sư đại học và không lâu trước khi mất đã xuất bản một tập sách nhìn lại chủ nghĩa Marx. Nguyễn Q. Thắng còn ghi thời trước 1975, giáo sư Nguyễn Văn Trung sinh hoạt trong một số lực lượng, hội đoàn “dưới sự chỉ đạo trực tiếp, có lúc gián tiếp của lực lượng cách mạng nội thành” mà không dẫn chứng bằng cớ, dễ khiến hiểu lầm và trong trường hợp này sai lầm rất nghiêm trọng.

Trong phần trích văn tác giả Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Q. Thắng trích lại một phần Chương 5

– “Văn-học trong vòng tay chính trị” của hồi ký Những chặng đường đã qua của giáo sư Trung, nhưng trong phần tiểu sử nhắc việc Phạm Công Thiện phê bình các tác phẩm của gs Trung, mà Nguyễn Q. Thắng lại không ghi nhận những ‘feedback’ về việc ấy mà giáo sư Trung đã ghi lại trong cùng tập hồi ký đã kể; hơn nữa nếu quan sát đã thấy bài phê bình của Phạm Công Thiện đã không xuất hiện trong các lần tái bản tập Hố thẳm tư tưởng, nhưng lại được một nhóm Phật tử ở Huế in lại thành tập in mỏng Phê bình luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Văn Trung năm 1973.

Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã viết trong hồi ký của ông:

“Sau đảo chánh 01/11/1963, ông Phạm Công Thiện xuất bản cuốn Hố thẳm tư tưởng, dành một chương phê phán luận án tiến sĩ của tôi với một thái độ khinh bỉ, trịch thượng, mạt sát thậm tệ. Cuốn sách bán chạy, dư luận bàn tán sôi nổi vụ “ông Phạm Công Thiện phê phán ông Nguyễn Văn Trung”, chờ đợi tôi lên tiếng đối đáp; nhưng cho đến nay tôi vẫn giữ im lặng, không có một lời nói công khai nào. (…) Tôi và ông Thiện gặp nhau ở tòa báo Bách Khoa với sự chứng kiến của anh Lê Ngộ Châu. Trong bữa gặp gỡ đó, ông Thiện thú nhận với tôi đại ý như sau: Tôi viết bài phê bình anh để thỏa mãn những uất ức bất mãn của giới Phật giáo coi anh là tiêu biểu cho trí thức Việt Nam nói chung và trí thức Công giáo nói riêng. Tôi xin hứa với anh sẽ bỏ bài đó trong lần tái bản sách sắp tới. Ông Phạm công Thiện đã giữ lời hứa.”
(Chương IV-. Ông Phạm Công Thiện).

3. Những đánh giá và xếp loại vô nghĩa, lỗi thời:

Đây là trường hợp các nhà văn nữ miền Nam thời ấy Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, kể cả Nhã Ca, đều bị Nguyễn Q. Thắng gán cho nhãn hiệu ‘vô sỉ’. Theo ông, các này mà ông gộp chung là “những người cùng nhóm là một thứ ‘vô sỉ’ (cynique) trong văn chương. Nghĩa là họ đem những cái không đáng phô trương ra quảng diễn không chút e dè (Nguyễn Thị Thụy Vũ tr.455, Trùng Dương tr.872, Nguyễn Thị Hoàng tr.629,…)”. Nguyễn Q. Thắng thêm rằng Nguyễn Thị Thụy Vũ làm công việc này “khá nhiệt tình trên từng trang văn”, còn tác phẩm nhà văn Trùng Dương “đều được dựng nên bởi nhân sinh quan và thế giới quan một cách “hiện sinh”, buông xả và gần như vô sỉ”

Nặng nề nhất là với nhà văn Túy Hồng mà Nguyễn Q. Thắng cho rằng cùng với các nhà văn nữ kia “từng gây nên hiện tượng văn học có tính nhục cảm dồn nén thể xác của các cô gái lỡ thì… (một cách) tiêu biểu nhất” (tr. 538). Đây là thứ ngôn ngữ của Vũ Hạnh và Tin Văn (do Nguyễn Ngọc Lương, Trần Bạch Đằng chi phối, điều khiển)!

Nhà văn Nhã Ca có lẽ bị nặng nề nhất trong bộ gọi là văn học sử này. Với mục đề “35-Thu Vân, nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề” mấy ai nghĩ là Nguyễn Q. Thắng nói về nhà văn Nhã Ca?

Ở trang 639, “Thu Vân” biến thành “Trần Thị Thu Vân”, và khi viết về thơ Nhã Ca, không, về nhà thơ Thu Vân chớ, thì ông Nguyễn Q. Thắng viết như sau:

“Bà còn là một thi sĩ với những thi đề có giá trị nghệ thuật của mĩ tính thi ca hiện đại có thể nói thơ bà Thu Vân vượt trên văn bà Thu Vân”.

Sau đó ông trích bài thơ nổi tiếng của bà nhưng lại cắt mất một phần tựa đề chỉ vì trùng với bút hiệu thật của bà (Nhã Ca!): “Bài… Ca thứ nhất”!

Nhà văn Nhật Tiến khi viết về các nhà văn nữ này đã nhẹ nhàng nhận xét rằng “…những tác phẩm viết táo bạo của giới cầm bút phụ nữ, gây cho độc giả một ấn tượng mới mẻ về những ý tưởng muốn thoát ly cái vỏ phụ nữ Á-đông thuần túy…” (Bách Khoa, 1967).

Gần đây, nhà thơ Du Tử Lê thì khẳng định rằng “Nhã Ca, nhà văn nữ nói “không” với dục tính” trong bài viết cùng tựa đề trên tờ Người Việt (CA) số 6-4-2010.

Bộ sách của ông Nguyễn Q. Thắng đã khiến người đọc nhận thấy sự hiện diện quẩn quanh của một chỉ thị nào đó của bộ chính trị!

Cách nhìn của mấy cây viết “phải đạo” như Vũ Hạnh, Lữ Phương, Trần Trọng Đăng Đàn, và nay Nguyễn Q. Thắng đã là một cái nhìn mang tính xã hội, chính trị của một quan niệm macho toàn trị, tức không mang tính văn chương; quan niệm bao cấp này đã lỗi thời và rất bất cập! Gần 10 năm trước, chúng tôi đã có dịp viết về đề tài Tính dục và nữ quyền này:

“Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục,… không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam (…) Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe (1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào “On ne nait pas femme, on le devient”. Trong văn chương, trong ngôn ngữ, vì là cái có thực, có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và từ tình dục (…) Không đóng vai luân lý, đạo đức nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng, nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi nhóm Sáng Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương…”

Một quan niệm khác mà Nguyễn Q. Thắng hay nói đến và gán cho vài nhà văn, là sadisme. Theo các từ-điển thì sadisme có nghĩa là “thói loạn dâm gây đau” trong y học và một cách tổng quát chỉ những trò, những lối sống và cả bút pháp “chủ khoái lạc bạo tàn”.

Bút pháp của nhà văn Duy Lam mà Nguyễn Q. Thắng gọi là “nhà văn của dòng họ” đã được ông gọi là “bút pháp nặng tính sadique của văn chương hiện đại tây phương” (tr. 256). Em ông, nhà văn Thế Uyên thì được xem là “một nhà văn thuộc trường phái sadique như ông tự nhận ‘có lẽ tôi hơi sadique’” (tr. 325). Khuynh hướng này nhà thơ Nguyên Sa ở Miền Nam đã là người đầu tiên sử dụng. Sadisme là một ý niệm, một style, nếu áp dụng vào lãnh vực văn chương thì cũng chẳng có gì tai hại cần phải nhấn mạnh.

4. Bất nhất về thời gian:

Với những nhà văn Việt Nam Cộng hòa sống sót và thoát rời khỏi nước được, về sau tiếp tục sinh hoạt ở hải ngoại, Nguyễn Q. Thắng dừng tiểu sử họ và ngừng ghi tác phẩm của họ ở mốc 1975, trong khi các nhà văn của Việt Nam cộng sản hay theo Cộng thì lại được tỉ mỉ tiểu sử và tác phẩm đến ngày xuất bản bộ sách (2008-9). Một điểm khác nữa là Nguyễn Q. Thắng thường trích các tác phẩm đã đăng báo hơn là từ văn bản đã xuất bản của các tác phẩm và tác-giả đó.

Vậy đây là một tuyển tập văn học qua báo chí hay văn học sử? Võ Phiến trước khi xuất bản các tuyển tập về văn học miền Nam 1954-1975, đã cất công viết một tập Tổng quan, trong khi bộ sách của Nguyễn Q. Thắng chỉ là một sưu tập và tiểu truyện về các tác giả miền Nam với những giới thiệu có tính thương mại hơn là đi vào nội dung!

Xem bộ sách của Nguyễn Q. Thắng không khỏi nhớ đến dĩ vãng tàn độc đối với nền văn học của những kẻ sống ở miền Nam, trong vùng Việt Nam Cộng hòa bị chiến bại, đã bị ‘kẻ thắng’ xóa bỏ bằng những nghị định và chiến dịch:

Nghị định 20-8-1975 của Lưu Hữu Phước bộ trưởng Thông tin văn hóa của chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam – nghị định cấm lưu hành sách báo xuất bản tại miền Nam trước đó.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV (1976) ghi rõ nhiệm vụ phải “quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và văn hóa thực dân mới” ở miền Nam (Trích từ Văn hóa văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ Ngụy (Hà Nội: Văn Hóa, 1977), tr. 8).

Tháng 3-1976, từng đoàn từng đoàn cán bộ càn quét tịch thu hết sách báo xuất bản dưới thời chế độ cũ, để đốt, “tẩy”. Chiến dịch thanh toán “bọn văn nghệ sĩ phản động” khởi đầu sáng 3-4-1976, hai ngày sau vụ nổ công viên con rùa đường Duy Tân: công an lùng bắt hầu hết văn nghệ sĩ và trí thức. Sau đó là tù đày, cải tạo, và khi nghi bóng nghi gió lại tiếp tục càn quét thu vén sách Việt Nam Cộng hòa như vào tháng 3-1981, nhà cầm quyền ra hẳn một cuốn danh mục sách và tác giả cấm lưu hành. Những gì không xuất phát từ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản đều phải xóa bỏ, phủ định, vì “mảng” văn học này bị kết án là “đồi trụy hóa con người”, “phục vụ xã hội tiêu thụ miền Nam” tức một thứ “văn học phục vụ chính trị phản động”, phản cách mạng – những cái nhãn hiệu có thể làm tiêu mạng sống con người!

Từ 1975 đến nay có hơn 20 cuốn sách phê phán xuyên tạc nền văn nghệ Việt Nam Cộng hòa: văn học tay sai cho thực dân mới cũ nhưng đáng sợ như những trái bom!

Như vậy, ngay sau khi “chiến thắng”, các cán bộ và cả guồng máy liền gấp rút tấn công và thủ tiêu những thành tích văn hóa văn học ở miền Nam trước khi họ đến.

Gần đây đã có vài cử chỉ có tính “xét lại”. Vài tác phẩm của nhà văn Việt Nam ở hải ngoại được xuất bản ở trong nước, dĩ nhiên đã qua gạn lọc (gần đây thêm Kiệt Tấn – Em điên xõa tóc, Hoàng Khởi Phong – Người trăm năm cũ). Riêng tác phẩm của các nhà văn Việt Nam Cộng hòa từng bị cấm đoán sau 1975, nay cũng được tái bản (như của Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, Thế Uyên, Nhật Tiến, v.v…), vậy mà Nguyễn Q. Thắng làm công việc gọi là văn học sử lại không cho biết Phi Ích Nghiễm là Dương Nghiễm Mậu! Khi giới thiệu các truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu được NXB Phương Nam hợp tác với NXB Văn Nghệ xuất bản năm 2007, Phạm Xuân Nguyên đã có cái nhìn thích đáng hơn Nguyễn Q. Thắng:

“Văn chương dân tộc Việt Nam thế kỷ XX, do nhiều hoàn cảnh lịch sử và lý do khác nhau, đã không thuần nhất và thống nhất. Có một thực tế đã trở thành lịch sử là trong giai đoạn 1954 – 1975 đất nước bị chia thành hai miền lãnh thổ với hai thể chế khác nhau và dưới hai thể chế trên hai miền lãnh thổ ấy đã tồn tại hai nền văn chương khác biệt về ý nghĩa chính trị. Nhưng ở những tác giả và tác phẩm tiêu biểu, ở bên này hay bên kia, đó đều là văn chương đúng nghĩa, tức là có giá trị nhân bản, nhân văn đối với con người. Tôn trọng lịch sử thì phải thừa nhận một thực tế khách quan là văn chương Việt Nam thế kỷ XX có các bộ phận khác nhau, và để hình dung bức tranh đầy đủ về văn chương dân tộc thì phải có sự tổng hợp, thống nhất các giá trị văn chương đích thực từ các bộ phận cấu thành ấy. Độ lùi thời gian và hoàn cảnh chính trị xã hội hiện thời của đất nước đã tạo điều kiện cho việc này. Trên tinh thần đó, “Tủ sách văn học miền Nam trước 1975” do Nhà xuất bản Văn Nghệ và Công ty văn hóa Phương Nam phối hợp thực hiện là một ý tưởng và công việc cần thiết và hợp thời, trên cả hai phương diện chính trị và văn chương, đáng được trân trọng và ủng hộ. Lựa chọn in lại những tác phẩm có giá trị văn chương của các nhà văn nhà thơ từng sáng tác ở Sài Gòn giai đoạn 1954 – 1975 là nhìn văn học ở tư cách văn học dưới con mắt lịch sử. Hơn thế, đó còn là đưa trả lại cho văn chương nước nhà những giá trị xứng đáng của nó và đem lại cho độc giả văn chương những tác phẩm họ cần biết, cần đọc để hiểu đầy đủ, toàn diện hơn nền văn chương dân tộc thế kỷ XX. Có thời ném đá đi và có thời lượm đá về.

Bốn tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu (Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Nhan sắc, Tiếng sáo người em út) vừa được ra mắt ở Nhà xuất bản Văn Nghệ là trên tinh thần này. Đọc nó, độc giả sẽ được phát hiện một nhà văn xuất sắc với một lối viết hiện đại, thấm đầy chất hiện sinh, đi sâu vào thân phận con người, phơi bày những cảnh ngộ làm người trong một thế giới nhiều bất trắc, phi lý. Do đó đọc ông không thể đọc theo kiểu ngoại quan mà phải bằng con mắt nội quan…”
(Thể Thao & Văn Hóa, 13/4/2007).

Viết văn học sử mà gọi Nguyễn Đăng Sinh thay vì Mai Thảo, Đoàn Thế Nhơn thay cho Võ Phiến, Thu Vân và Trần Thị Thu Vân thay vì Nhã Ca, v.v… thì quả là bất thường thật! Không lẽ những danh tính nhà văn Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Võ Phiến, Nhã Ca, v.v… hãy còn nhạy cảm và gây dị ứng đến thế sao? (Dĩ nhiên không thể có Hồ Hữu Tường, Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn, v.v… trong bộ sách của Nguyễn Q. Thắng!).

Cũng cần nhắc lại, những nhà văn nhà thơ của miền Nam bị giấu tên trong bộ sách của Nguyễn Q. Thắng nằm trong số 10 vị từng bị gọi là Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa tư tưởng – tựa sách do nhà xuất bản Văn hóa in năm 1980 và tái bản nhiều lần. Tập này gồm 10 chương, nêu đích danh 10 nhà văn miền Nam để xóa bỏ sự nghiệp văn hóa và văn học của họ, những người theo họ là nguy hiểm nhất vì ảnh hưởng “di hại” lâu dài. 10 “biệt kích” đó là Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Nhất Hạnh, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo, Võ Phiến, Hồ Hữu Tường và Nhã Ca.

Một nền văn học giấu mặt, danh xưng đảo lộn,… thì làm sao đến gần được sự thật mà lại còn lớn tiếng kêu gọi hòa hợp hòa giải? Và phải chăng nền “học thuật một nửa sự thật” này đã khiến cho một giảng viên đại học sư phạm đã không biết Tự Lực Văn Đoàn là gì, hoặc Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam là ai (Chương trình Ai là triệu phú? của đài truyền hình Hà Nội, 1-2007).

Chúng tôi tự hỏi không biết có nên thêm vào bài này rằng sau bộ sách Văn học Việt Nam nơi miền đất mới của Nguyễn Q. Thắng là vụ Nguyễn Đức Tùng in tập Thơ đến từ đâu gồm những phỏng vấn một số nhà thơ trong ngoài và sau đó là vụ Hội thảo văn học Việt – Mỹ sau chiến tranh được tổ chức tại Hà Nội cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm nay, 2010, vụ trước còn có lời ra tiếng vào, vụ sau chỉ có báo Nhà Nước Việt Nam đưa tin.

“Con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ”: tên nghe kêu nhưng con đường đó chỉ đi rất giới hạn, từ Hà Nội đến Trung tâm William Joiner ở Boston rồi trở về, không quá khứ xa hơn, cũng không có tính truyền thống lẫn văn học!

Ngày song thất 2010©
Nguyễn Vy Khanh© 2010 talawas.

Đỗ Phương Khanh
07-19-2014, 18:34
Trích:
...''...
Mới đây, chúng tôi được đọc bộ Văn học Việt Nam nơi miền đất mới trên 4 ngàn trang gồm 4 tập của soạn giả Nguyễn Q. Thắng (NXB Văn Học, Hà Nội). Miền Đất Mới ở đây được soạn giả bao gồm miền Nam Lục tỉnh và miền Nam Cộng hòa; và trong các tập 3 và 4 chủ yếu vẫn là những cây viết của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm nằm vùng, ly khai, tập kết, gởi vô Nam hoặc những cây viết từng có mặt thời Việt Nam Cộng hòa nhưng sau này sinh hoạt với các hội và báo chí của Cộng sản Việt Nam.

Đặc biệt Nguyễn Q. Thắng đã xen vào đó những nhà văn của miền Nam 1954-1975, nhưng vì ông có thể nói hãy còn tuân theo một “chính sách” hay “chỉ thị” nào đó, do đó chưa thể là một bộ văn học sử đúng nghĩa – nghĩa là ghi nhận, tổng kết và phê phán các tác giả và tác phẩm như đã xuất hiện và sinh hoạt một thời.

Những phê phán, nhận xét có thể có những chủ đích chính trị:

1. Cố tình nêu sai danh tính các nhà văn Việt Nam Cộng hòa:

....''...




Điều kiện tiên quyết để trở thành nhà biên khảo đáng tin cậy là lương tâm. Vài ba trăm năm sau, khi mà sách vở thất tán, tam sao thất bản, người đọc chỉ còn tin vào sự cẩn thận, làm việc nghiêm túc, chính xác và lương tâm của nhà biên khảo để nương vào đó mà tìm dấu vết người xưa, cho nên không cần đến "văn chương sáng tác" trong biên khảo.

Dùng "văn chương sáng tác" để kiếm điểm với cường quyền trong biên khảo như ông "nhà biên khảo Nguyễn Q. Thắng" để viết 4000 trang sách là một sự phí phạm giấy mưc...

ĐPK
.

Hieucali
07-19-2014, 19:06
Nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã đóng góp to lớn trong văn học thời VNCH, một nền văn học đúng đắn. Sau 1975 thì csVN muốn làm cho nền văn học đi ngược lại mà họ cho rằng đồi trị, thì thử hỏi làm sao đúng đắn được. Đó là một hành động phản văn học, phản dân tộc.

Đỗ Phương Khanh
07-20-2014, 13:05
.


...''...chủ trương chiếu cố miền Nam đã được Đảng CS đề ra trong Đại Hội III, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960. Website của Đảng, phần lịch sử Đảng có đoạn:

“Từ 5 đến 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã họp ở Thủ đô Hà Nội. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đã chỉ rõ: Từ ngày hoà bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là:

“Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông-Nam Á và thế giới”.

Rồi :

“ ... tại Đại hội lần thứ III, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị, cũng tại Đại hội này, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, giữ chức Bí thư thứ nhất.

Suốt 15 năm trên cương vị này,đồng chí cùng với Bộ Chính trị và Trung ương Đảng kiên định đường lối độc lập, tự chủ, tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, sáng suốt lãnh đạo nhân dân và các lực lượng vũ trang cách mạng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/details.asp?topic=104&subtopic=210&leader_topic=504&id=BT1620639885

Phải vòng vo như thế, chỉ để mong mọi người hãy bình tâm mà nhìn lại số phận của nhân dân VN:

- Nếu không có Đảng CSVN thì sau Genève, đất nước vẫn còn tồn tại với 2 thể chế như Nam, Bắc Hàn. Và miền Nam VN sẽ tiến xa chẳng thua Nam Hàn bây giờ.

- Vào thời gian Đại Hội Đảng Cộng Sản kỳ 3 họp vào tháng 9 năm 1960 ra quyết định "giải phóng miền Nam chống xâm lược Mỹ"

thì:

" Năm 1961 khi ông Ngô Đình Diệm ký Hiệp ước quân sự với Mỹ, thì miền Nam lúc đó chỉ có các cố vấn Mỹ và một ít quân mang tính yểm trợ (US Support Troopes) với nhiệm vụ chính là xây dựng phi trường, cầu cống, đường sá...

Mỹ chỉ bắt đầu đưa quân vào miền Nam từ năm 1965, sau khi ông Ngô Đình Diệm qua đời do cương quyết từ chối không cho Mỹ trực tiếp can thiệp quân sự. Quân Mỹ thực sự đổ quân vào miền Nam sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 và để giúp VNCH chống lại cuộc chiến đang ngày càng leo thang của cộng sản ở miền Nam. Cho đến năm 1964 cả về quân số và trang bị quân sự của VNCH không thể bằng VNDCCH ....".....
Như thế, nếu không có "cái gọi là giải phóng miền Nam" thì quân đội Mỹ cũng chẳng có lý do tiến vào VN để mà "xâm lược".


Cả thế giới bị lừa !!!

....chủ trương chiếu cố miền Nam đã được Đảng CS đề ra trong Đại Hội III, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960...."...

... thì lúc đó quân đội Mỹ chưa tới giúp miền Nam một cách đông đảo, mà chỉ có một số cố vấn kỹ thuật, cũng như những cố vấn của các nước cộng sản giúp VC tại miền Bắc.

...''...tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ và đoàn kết quốc tế, ..."...thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa ..."...

... câu này có nghĩa là tranh thủ sự viện trợ võ khí đạn dược từ phe cộng sản để bộ đội cộng sản Bắc Việt thực hiện nhiệm vụ bành trướng chủ nghĩa cộng sản xuống Miền Nam, thực tế là phe cộng sản viện trợ rất nhiều võ khí đạn dược cho cộng sản Bắc Việt nhưng không viện trợ nhân lực, cho nên trong cuộc chiến, về phía Bắc Việt chỉ có thanh niên Việt Nam đi bộ đội chết mà thôi.

Biết bao nhiêu người miền Nam mù quáng, không biết âm mưu thâm độc của cộng sản quốc tế qua tay sai là cộng sản Bắc Việt, nay dở khóc dở cười sống chui nhủi trong bóng tối của độc tài tàn bạo, như những Huỳnh Tấn Mẫm, Dương Quỳnh Hoa, Nguyễn Hữu Thọ.... Họ như truyện ''cô bé quàng khăn đỏ'' khi nhìn thấy răng con cáo thì cũng là lúc cuộc đời đã tàn.

Chỉ tiếc rằng cái ngây thơ ngu si của "cô bé quàng khăn đỏ" chỉ giết một mình cô, bọn chính trị ba xu ngu ngốc của miền Nam lọt vào bẫy còn lôi theo cả mấy chục triệu dân miền Nam tan cửa nát nhà, bản thân tù tội, lưu lạc khắp nơi, chết trong các trại cải tạo, chết tại những vùng được đặt tên mỹ miều là "Kinh Tế Mới", chết trên đường chạy trốn, vượt biên, trong rừng, dưới biển .... Nhà cửa ruộng vườn sang tay cán bộ cộng sản, điển hình như con đường trung tâm buôn bán Lê Thánh Tôn xưa kia thịnh vượng sầm uất biết là bao, nay phần lớn đã trở thành Hotel mà chủ nhân là những "đại gia" thuộc "giai cấp mới" của "bên thắng cuộc" !!!

Tội ác của bọn bành trướng cộng sản và tay sai lớn biết chừng nào và uất hận của người dân hiền lành Việt Nam Cộng Hòa biết bao giờ nguôi!!!

ĐPK
.

Đỗ Phương Khanh
07-21-2014, 21:07
.


Một bia mộ
cho dòng văn học đô thị

tranhoaithu / November 14, 2013

Cụm từ “văn học đô thị miền Nam” không phải có sau 1975. Nó được xuất hiện truớc 1975, từ những cây bút nhận định phê bình miền Bắc hay từ nhũng đặc công văn hóa như Vũ Hạnh, Lữ Phương. Nó đồng nghĩa với “văn học nô dịch”, “văn học đồi trụy”, “văn học hiện sinh”, “văn học thực dân kiểu mới”, “nọc độc văn hóa”. Nó là một mũi dùi trong số những mũi dùi tiến công mà cấp lãnh đạo miền Bắc tận dụng trong mục đích thôn tính miền Nam. Nó cũng là cái cớ ngay sau tháng 4–1975, để cả một nền văn học miền Nam bị truy diệt tận gốc, sách vở bị đốt hủy tận tình.

Chỉ cần google “Văn học đô thị miền Nam”, ta có thể hiểu tại sao lại có sự đồng nghĩa ác nghiệt này. Người viết này khỏi cần nhắc lại. Nhắc lại cũng thừa. Bởi ai cũng biết. Và hầu như trong trái tim của mỗi người đều có những vết chém, vết cứa rỉ máu khi nhớ lại những rừng sách vở chìm trong lửa ngọn…

Mãi đến những năm gần đây, thực chất của nền văn học miền Nam trong thời chiến kia mới được các nhà phê bình, nhận định thuộc thế hệ trẻ sau này nhìn lại với một cái nhìn quay 180 độ:

“…đến thời điểm này chúng ta vẫn chưa hiểu và khai thác hết cái di sản văn học nghệ thuật nói chung hay thơ ca nói riêng của cha ông ở “khu vực” mà các nhà nghiên cứu hiện nay vẫn gọi đó là “văn học đô thị miền Nam” những năm đất nước còn bị chia cắt (– một di sản văn học được đánh giá là rất phong phú và đa dạng). Trong cái nhìn cầu thị và chân thành nhất, riêng ở chỗ này chúng ta cũng lại chưa kịp hiểu hết những tâm tư, tình cảm, những trăn trở của cha ông ta trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc trên dãy đất hình chữ S thống nhất. Một lần nữa, có thể nói, chúng ta vẫn chưa kịp hiểu hết cha ông mà đã vội hát câu“ví dầu tình bậu muốn thôi/bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra” rồi.”

(Nguồn Internet: Nguyễn Trọng Bình – Chưa hiểu hết cha ông thì đừng tính chuyện “soán ngôi” thơ ).


Chúng ta không ngạc nhiên trước sự thay đổi quan niệm 180 độ trên. Internet đã mở ra bát ngát và mênh mông kiến thức và tầm nhìn. Những tiếng nói đòi lại quyền được viết, được nghĩ, càng nhiều và càng được lắng nghe. Đám cuồng tín giáo điều đã bị gạt ra ngoài sân chơi. Những tên tuổi mà một thời được đánh bóng, lớp trẻ xem là thần tượng, nay đã bị lột trần cái vỏ giả dối hay hèn nhát. Hoặc qua những lời thú tội ở cuối đời hoặc qua những hồi ký của người trong cuộc. Trong các đại học, những luận án tốt nghiệp về khoa văn, thắp đuốc đi tìm không còn thấy những nhà văn nhà thơ của chế độ mà trái lại là Thanh Tâm Tuyền, là Sáng Tạo, là văn chương đô thị miền Nam. Bằng chứng cho sự thay đổi quan niệm là việc cho tái bản những tác phẩm mà tên tuổi tác giả trước đây được xem là cấm kỵ với chế độ. Tuy nhiên việc cho tái bản vẫn còn dè dặt, dựa vào những tác phẩm mà nội dung thì vô thưởng vô phạt. Chỉ mới gần đây nhất, vào đầu năm 2013, thi phẩm “Ngậm Thẻ Qua Sông” của Phù Hư mới là một hiện tượng lạ. Những bài thơ viết về thời làm lính “Mỹ ngụy” miền Nam, có cả ba-lô nón sắt, với những câu thơ chan chứa tình người, tình yêu quê hương sống núi, tình đồng đội lại được Hội Nhà Văn tp HCM cho phép xuất bản với tất cả những lời ngợi khen nồng nhiệt!

Đây có phải là cuối cùng văn học miền Nam đã khôi phục lại danh dự? Và cũng là lúc cái mà nền văn chương tuyên huấn, chỉ thị đã bị đào thải?

Nhưng vẫn có một thứ không thay đổi. Đó là nhãn hiệu “văn học đô thị miền Nam”.

Hễ nhắc đến văn chương miền Nam là nhắc đến văn chương đô thị. Làm như tất cả đội ngũ người viết văn làm thơ đều được sống ở đô thị, và lấy đô thị làm xúc tác, môi trường để viết. Làm như văn chương miền Nam chỉ quanh quẩn với phòng trà, vũ nữ, ăn chơi, ánh đèn màu, hay bị tiêm nhiễm bởi những triết lý hư vô, hiện sinh, nôn mửa… Làm như văn chương miền Nam chỉ bị bao trùm bởi bóng Sáng Tạo, với Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, hay những ngòi viết nữ như Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương, Nhã Ca, Lệ Hằng … chỉ sống và viết ở thành thị?

Ngay cả một người viết về nhận định văn học được xem là thuộc lớp mới tiến bộ là Lại Nguyên Ân cũng đã xem nhà văn đô thị là nhà văn “từng nổi tiếng trong văn học đô thị miền Nam trước 1975”:

“Mươi năm trước, lần đầu tới một thành phố miền Trung, tôi đã tò mò muốn hỏi xem tại thành phố này liệu có còn “nhà văn đô thị” nào (nghĩa là nhà văn từng nổi tiếng trong văn học đô thị miền Nam trước 1975) sống ở thành phố này không? Một cán bộ trong ngành văn hóa nói với tôi theo cách nói suồng sã giữa những người thân quen:

“Không còn ai đâu ông, ai không di tản ra nước ngoài thì cũng đã chạy vào sống ở Sài Gòn rồi. Ông tính, siết con người ta như kiểu tuyên huấn nhà mình thì anh nhà văn cũ nào mà sống nổi ở địa phương?


(nguồn Internet: Mênh mông chật chội, chật chội mênh mông)
***
Vâng, nếu hỏi có nền văn học đô thị không, tôi sẽ không ngần ngại trả lời: Có. Đó là vào những năm của thời đệ nhất cộng hòa (từ 1955-1962) lúc mà con quái vật chiến tranh chưa thật sự vồ chụp miền Nam. Saigon vẫn là nơi dung thân của nhà văn, nhà thơ và nhà nghiên cứu cùng với Báo chí, nhà phát hành, nhà in… Đó là những năm mà Sáng Tạo được mùa. Từ số đầu xuất hiện vào năm 1956 đến số cuối phát hành vào năm 1961 không thấy một từ bom đạn, chết chóc, lửa khói. Trái lại là những cuộc thảo luận văn học nghệ thuật bàn tròn, khi thì 8, khi thì 10, khi thì 12 người. Đông đúc. Náo nhiệt như chợ Tết. Đến nỗi Mai Thảo đã phải dành trang đầu của số đầu tiên để đội vương miện cho Saigon, goi nó là thủ đô văn hóa của Việt Nam.

Như vậy, gọi văn học miền Nam là văn học đô thị thì cũng thấy có lý. Trong khi Mai Thảo xem SG là :

Không còn là chân tay, SàiGòn đã là một trái tim. Những biến cố trọng đại của lịch sử đất nước từ một ngày nào đã chuyển đổi trọng tâm sinh hoạt dân tộc, và Sàigòn đang phát triển, thay thế cho một Hà-Nội đã tàn lụi, đã nghiễm nhiên biến thành một thứ cứ điểm chính yếu quy tụ mọi thiện chí xây dựng và mọi nỗ lực đóng góp của những hoạtđộng, văn-hóa hiện hữu, trên mọi ngành mọi mặt … (1)

Trong khi đó thì Vũ Hạnh dưới bút danh Cô Phương Thảo, một nhà văn mà sau này chúng ta biết là một đặc công văn hóa nằm vùng cũng vẫn xem đô thị là nơi mà văn học có mặt:

“Giữa các cù lao đô thị, giữa các tường phố cao dày rũ bóng ta gặp những văn nghệ sĩ đang đi. Họ đi về đâu ?” (2)

Có nghĩa là dù hoan hô hay đả đảo, văn học miền Nam trong thời bình vẫn là văn học ở thành thị. Ít có nhà văn nào, ở tận đồng tháp mười hay tuốt trên đỉnh núi Trường sơn, hay một vùng quê hẻo lánh viết bài và gởi về đóng góp. Ví dụ Võ Hồng thì ở Nha Trang. Nguyễn văn Xuân thì ở Đà Nẳng… Phan Du ở Huế, Quách Tấn ở Nha Trang. Họ đều sông và viết ở thành thị…Sơn Nam viết về nhà quê, nhưng ông vẫn ở ngay tại Saigon viết lách….Saigon rõ ràng là thủ đô văn hóa. Thành thị, đô thị là nơi trú ẩn của văn học nghệ thuật miền Nam. Độc giả thì cũng vậy. Giới trí thức, có học thì có Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ 20. Giới ưa chính trị thì có Quan Điểm, Chỉ Đạo. Giới bình dân thì có những tuần báo hay những nhật báo với những truyện ngắn hay truyện dài kiểu feuilleton…

Có nghĩa là người viết và người đọc hầu hết đều ở thành thị,

Lúc bấy giờ, chiến tranh chỉ nghe nói bằng những tin tức không đáng quan tâm. Sáng Tạo vẫn hô hào cổ xúy cho việc làm mới văn học nghệ thuật. Cuộc thảo luận thứ tư đã gây nên nhiều bất bình vì họ đòi thanh toán với thế hệ đi trước, bằng cách từ khước văn học tiền chiến. Kẻ đánh mạnh nhất là Vũ Hạnh, dùng bút hiệu Nguyên Phủ sau đó là Cô Phương Thảo. VH cũng không nương tay một người đã chết: nhà thơ Quách Thoại:

“…Chưa có năm nào - trong khoảng thời gian 6 năm lại đây – nhiều báo văn – nghệ ra đời như thế. Một tờ Sáng Tạo cố gượng ngoi lên sau lần ngã quỵ. đem cái cầu kỳ và sự lập dị làm nền giá – trị của mình. Ngoài những cuộc mạn-đàm trong nhóm về các vấn-đề văn – nghệ không dẫn đến đâu – trừ dẫn đến cái giả-tạo của sự sáng tạo – tờ báo còn tự tố cáo một sự bế- tắc bằng cách phí công phủ nhận văn-nghệ tiền chiến và suy tôn quá đáng một nhà thơ trẻ tầm thường thỉnh thoảng mới tỏ xuất – sắc trong một đôi câu, nhưng nhờ cái chết làm cho tự – ái của những người khen không bị thương-tổn và nhờ cái chết mà chóng . . . hiển thánh trong một tôn giáo chưa tìm đâu ra thần tượng. (2)

Đến nỗi, Mai Thảo phải phản công qua bài viết “ Con đường trở thành và tiến tới của nghệ thuật hôm nay” trên Sáng Tạo số 6 Bộ mới đầu năm 1961. Chưa bao giờ ông lại dùng những lời lẽ hằn học, nặng nề như thế này:

“Những khuynh hướng mới. tồng hợp thành trào lưu tưtưởng nghệ thuật mới, trào lưu đó đang hình thành rực rỡ, đã bắt đầu gây những tác động mãnh liệt sâu rộng trong tâm hồn người sáng tác trong đời sống xã hội, khảnăng xây dựng và hủy phá của nó đang tạo thành mộtđổi mới, một đảo lộn chưa từng thấy trong lịch sửnghệthuật Việt Nam, những khuynh hướng đó có thực là những trạng thái tiêu biểu cho một thứnghệthuật vô luân, xa đọa, phản luân lý đạo đức, vong bản, ngoại lai, phản loạn, nhưbọn bão thủphản tiến hóaởđây đang điên cuồng gào thét, đòi tốcáo trước chính quyền, đòi trừng phạt…, đòi đền tội trước tiền nhân hay không ? Những khuynh hướng đó có thực là hiện thân của một lớp người vô trách nhiệm, vong bản, lập dị, của những tâm hồn điên loạn, những kẻ vọng ngoại, “hiện sinh” bắt chước vô ý thức một trào lưu nghệ thuật suy đồi Tây phương hay không ? Người ta có thể nhân danh một nhà luân lý của một thứ luân lý nào đó, nhân danh đạo đức của một thứ đạo đức nào đó, nhân danh nghệ thuật (cũng được) của một thử nghệ thuật nào đó đề trả lời có. Và để đi xa hơn, lên án, đòi tố cáo, đòi trừng phạt những khuynh hướng đó như những sản phầm tinh thần độc hại, những người chủ trương những khuynh hướng đó như những tội phạm chính trị nguy hiểm cho xã hội và chính quyền. (3)

Làm sao ông biết VH là một đặc công văn hóa nằm vùng, gia nhập Mặt Trân Giải Phóng vào năm 1960 !

Trong lúc đó, chiến tranh bắt đầu gia tăng cường độ. Mức độ xâm nhập người và vũ khí từ miền Bác vào Nam đến mức quan ngại đến nỗi vào năm 1962, Mỹ bắt đầu dùng thuốc khai quang thả xuống đường mòn HCM. Các toán lực lượng đặc biệt Mỹ bắt đầu huấn luyện những đơn vị người Thượng để chống lại sự xâm nhập của bộ đội Bắc Việt qua ngả cao nguyên.

Sỡ dĩ tôi lái qua những tin nóng chẳng liên quan đến bài viết về văn học, không ngoài mục đích chứng minh là chiến tranh đã thật sự bủa chụp xuống miền Nam, ảnh hưởng từng đời sống cá nhân nói chung và văn nghệ sĩ nói riêng. Có nghĩa là chiến tranh đã không từ một ai.

Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyên Sa, Du Tử Lê, Doãn Dân, Lê Tất Điều. Thảo Trường, Tạ Tỵ, Song Linh, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh. Y Uyên…. kẻ trước người sau bị động viên. Có người thì may mắn được ở lại SG tiếp tục viết văn viết báo như Thanh Tâm Tuyền, Du Tử Lê, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, Nguyên Sa, Tạ Tỵ… Có người phải mang ba lô về nơi heo hút và tử trận như Dõan Dân, Y Uyên, Hoàng Yên Trang, Song Linh…

Từ đó, từ 1962, văn học thành thị đã thấy rả ra từng mảng. Trong một bài phỏng vấn của tạp chí Khởi Hành. TTT cho biết ông không làm thơ trong 10 năm. (*). Tuy nhiên chúng tôi đã sưu tầm được hai bài thơ liên quan đến cuộc chiến.

Trời còn đêm nay còn mãi mãi
Sao như lệ ướt chưa muốn rơi
Anh ném hồn dong ngoài bãi trận
Mai Hoa Mai Hoa em
(Tặng Phẩm)
…..
Trong hang động vô cùng rét lạnh và cô đơn
Lô cốt thả neo giữa không trung
Trái phá nổ ngậm miệt rừng chồi, hàng dừa nước ven sông ùa sáp tới
Anh bảo: Đừng ngủ em, chống mắt lên, chờ kẻ địch
Đừng ngủ em, trời sắp sáng, đừng ngủ em
Anh trở xuống lẩn vào đám cao ướt sắc vượt đầu
Và lại nghe khúc hát mỏng như tợ sợi rét dăng ngang mặt
- Em ơi, em ơi, ngồi đây anh nhớ em.
(Tuần gác – Văn số 18-1964 – chủ đề thơ văn Có Lửa)



http://tranhoaithux.files.wordpress.com/2013/04/van-38.png?w=700 (http://tranhoaithux.files.wordpress.com/2013/04/van-38.png?w=700)

(Bìa của tạp chí Văn số 18 chủ đề “ Thơ văn có lửa”
vào ngày 18-9-1964)


Chúng tôi xin đăng lại Phần Mục Lục của số báo Văn quan trọng này:



Nguyễn Quang Hiện SỰ ANH HÙNG CỦA NHỮNG NGƯỜI ĐANG SỐNG 2
Hoàng Yên Trang MỘT LẦN THÔI CŨNG ĐỦ 6
Thế Uyên VẤN ĐỀ 7
Thanh Tâm Tuyền TUẦN GÁC 15
Tạ Tỵ ĐỒN C.K. 17
Hữu Phương MÙA BIỂN ĐỘNG 34
Hoàng Ngọc Liên MŨ ĐỎ TRỜI XANH 40
Thao Trường DỌC ĐƯỜNG 41
Tường Linh NIỀM VUI HÔM NAY 51
Phan Lạc Tiếp NHỮNG NGÓN TAY CỦA BIỂN 53
Thái Tú Hạp LÒNG MẸ 59
Duy Lam NỖI CHẾT KHÔNG RỜI 61
Du Tử Lê TÂM SỰ NGƯỜI LÊN MẶT TRẬN 71
Thanh Đào GIẤC HỒ 72
Đỗ Thúc Vịnh NƯỚC ĐỔ LƯNG ĐÈO 73
J. D. Saligner Trần Đình Phong dịch TẶNG NÀNG ESMÉ, VỚI TÌNH YÊU VÀ LÒNG ĐÊ TIỆN
H.L. Nguyên Trần HOÀNG HÔN CHIẾN ĐỊA 112
Nguyên Vũ THƯ CON PHƯƠNG XA 113
Dương Nghiễm Mậu ĐÊM TÓC RỐI 115


Bạn tìm thử xem: Văn học đô thị ở chỗ nào ?

Tạ Tỵ viết về đồn bót.
Thảo Truờng ghi lại những dặm đường hành quân.
Du Tử Lê thì nói hộ dùm những người lên mặt trận.
Phan Lạc Tiếp thì mang chiến hạm, biển cả, và bất trắc vào văn chương.

Văn học đô thị ở chỗ nào chứ ?

Có thể nói, bìa của tạp chí Văn số 18 này là tấm cáo phó cho một dòng văn học mà phía miền Bắc quen gọi là văn học đô thị bắt đầu từ 1955 và chấm dứt vào 1962. 7 năm có lẽ. Chiến tranh đã tạo nên một thế hệ khác tiếp nối, nhưng cũng tạo nên một giòng văn học khác, lẫy lừng, và tấp nập vô cùng.

(còn tiếp)

Đỗ Phương Khanh
07-22-2014, 00:42
(tiếp theo)


Sự đóng góp của thế hệ chiến tranh thật sư là to lớn và hùng vĩ. Trong khi nhà thơ Thanh Tâm Tuyền thú nhận là trong vòng 10 năm sau năm 1959, ông không làm một bài thơ nào thì chúng tôi đã sưu tầm vào khoảng 400 nhà thơ trong thời chiến, mà các sáng tác của họ đều xuất hiện trên các tạp chí thời danh bấy giờ ! (4)
Qua thư mục online của Thư viện trường đại học Khoa học Xã Hội và Nhân văn TP HCM (tức Đại học Văn Khoa cũ) tôi đã thực hiện một bảng thống kê về số lượng đóng góp cho văn học thời chiến từ năm 1964 đến năm 1975 của một số tác giả tiêu biểu: ba người đã xuất hiện trong thời Sáng Tạo là Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên :
THANH TÂM TUYỀN


Thơ tình / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972. – Số 210. – Tr. 2 – 6. – 5.
Thơ mừng năm tuổi / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972 Số 199. – Tr. 73 – 79. – 7.
Anh đã đọc thằng kình chưa / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1970 Số 236. – Tr. 21 – 24. – 4.
Thầm nhủ / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1969. – Số 0. – Tr. 87 – 90. – 4.
Khúc tháng chạp / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972. – Số 0. – Tr. 69 – 70. – 2.
Ngựa tía / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1969 Số 130. – Tr. 27 – 30. – 4.
Giới hạn / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1966. – Số 62. – Tr. 71 – 77. – 7.
Sáng chiều / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1970 Số 166. – Tr. 51 – 58. – 8.
Bọn ngốc / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1966 Số 135. – Tr. 94 – 97. – 4.
Ca tụng già vượng / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1970 Số 236. – Tr. 5 – 7. – 3.
Đêm gió / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972 Số 193. – Tr. 13 – 20. – 8.
Phòng thủ / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972. – Số 0. – Tr. 87 – 95. – 9.
Thời kỳ ca dao / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1970 Số 151. – Tr. 3 – 10. – 8.
Thơ mừng năm tuổi: Tết cao nguyên của đạo khòm / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972 Số 200. – Tr. 71 – 79. – 9.
Bóng chiếc / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1972. – Số 0. – Tr. 69 – 75. – 7.
Nghĩ về Thành Cát Tư Hãn, cái cớ của Vũ Khắc Khoan / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1973 Số 233. – Tr. 1 – 12. – 12.
Cuộc gặp gỡ / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1965. – Số 26. – Tr. 93 – 109. – 17.
Tuần gác / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1964. – Số 18. – Tr. 15 – 16. – 2.
Người gác cổng / Thanh Tâm Tuyền// Văn. – 1964. – Số 2. – Tr. 87 – 97. – 11.

TÔ THÙY YÊN


Trường Sa hành / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1970 Số 236
Qua sông / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1971 Số 190..
Tưởng tượng ta về nơi bản trạch : Quỉ xướng thi / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1972. – Số 207.
Hề, ta trở lại gian nhà cỏ : Quỉ xướng thi / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1972. – Số 207.
Chuyện tình người lỡ vậ n / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1971 Số 188.
Đãng tử / Tô Thùy Yên// Văn. – 1971 Số 190. .
Mòn gót chân sương nắng tháng năm / Tô Thùy Yên// Văn. – 1972. – Số 209.
Anh hùng tậ n / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1971 Số 190. – Tr. 57 – 58. – 2.
Nỗi kiên tâm / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1972. – Số 0. – Tr. 119 – 127. – 9.
Bất tận nỗi đời hung hãn đó… / Tô Thùy Yên// Văn. – 1972. – Số 208. – .
Chim bay biển Bắc / Tô Thùy Yên// Văn. – 1970 Số 208.
Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai : Quỉ xướng thi / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1972 . – Số 207.
Bài ca lý của người cuồng sĩ : Quỉ xướng thi / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1972. – Số 207.
Ba trăm năm, lịch sử làm thinh : Quỉ xướng thi / Tô Thuỳ Yên// Văn. – 1972. – Số 207.
Trời mưa đêm xa nhà / Tô – Thùy – Yên// Văn. – 1965. – Số 44.

NGUYÊN SA


ý thức và nghệ thuậ t / Nguyên Sa, Trần Bích Lan// Văn học. – 1965. – Số 42
Cắt tóc ăn tết / Nguyên Sa// Văn học. – 1966. – Số 54.
Viết về Duyên Anh / Nguyên Sa// Văn học. – 1972. – Số 149.
Vết đạn / Nguyên Sa// Văn học. – 1964. – Số 30..
Tạp chí văn chương năm nay / Nguyên Sa// Nghiên cứu văn học. – 1971. – Số 6. –
Mười sáu Nguyễn Du / Nguyên Sa// Nghiên cứu văn học. – 1967. – Số 0.
Descartes những ngày tuổi trẻ / Nguyên Sa// Văn học. – 1970. – Số 10.
Descarcarles những ngày tuổi trẻ / Nguyên Sa// Nghiên cứu văn học. – 1967.
Tình trạng tạp chí văn chương năm nay / Nguyên Sa// Nghiên cứu văn học..
Đề tài và tác phẩm / Nguyên Sa// Văn học. – 1965 Số 38
Tình trạng tạp chí văn chương năm nay / Nguyên Sa// Nghiên cứu văn học.- 1971 – Số 7.
ý thức và nghệ thuậ t / Nguyên Sa, Trần Bích Lan// Văn học. – 1965. – Số 43
Lời năn nỉ / Nguyên Sa// Tập san Văn. – 1966. – Số 49 + 50.
Vết đạn / Nguyên Sa// Văn học. – 1964. – Số 29.
Cơn mưa mùa hạ / Nguyên Sa// Văn học. – 1965. – Số 38.
Lời dặn bản thân / Nguyên Sa// Tập san Văn. – 1966. – Số 52.
Xin lỗi về những nhầm lẫn dĩ vãng / Nguyên Sa// Văn học. – 1967. – Số 79..
Một đoạn thư gửi Vũ Hoàng Chương / Nguyên Sa// Văn học. – 1969. – Số 97..
Vết sẹo / Nguyên Sa// Nghiên cứu văn học. – 1971. – Số 1. -
Phần thưởng / Nguyên Sa// Văn học. – 1966. – Số 60.
Kỷ niệm, ban đêm và cà – phê / Nguyên Sa// Văn học. – 1964. – Số 20..
Hỏi thăm Saigon / Nguyên Sa// Văn học. – 1969. – Số 91.
Đóng cửa / Nguyên Sa// Văn học. – 1966. – Số 53.
Hỏa châu và huyền thoại / Nguyên Sa// Văn. – 1965. – Số 26..
Chuyến khởi hành của Luân / Nguyên Sa// Văn. – 1965. – Số 26.
Bao giờ / Nguyên Sa// Văn. – 1965. – Số 42.
Dặn vợ sắp cưới / Nguyên Sa// Văn. – 1965. – Số 38.
Định mệnh chân dài / Nguyên sa// Văn. – 1964. – Số 16..
Tám phố Saigon / Nguyên Sa// Văn. – 1964. – Số 3. .
Khái niệm thẩm mỹ học / Nguyên Sa// Văn. – 1964. – Số 16.

Và 3 tác giả thuộc thế hệ chiến tranh là Luân Hóan, Mường Mán và Trần Hoài Thư.
Cả ba đều mang bộ đồ lính. Luân Hoán phục vụ tại Sư đòan 2, bàn chân trái bị mìn phải cưa. Mường Mán thì Sư đoàn 1 BB tại Thừa Thiên. Và THT thì phục vụ tại một đơn vị thám kích sư đoàn 22 BB tại Bình Định. Để xem sức sáng tác của họ như thế nào:
LUÂN HOÁN


Tạ lỗi một người tình / Luân Hoán// Văn học. – 1972. – Số 46. – Tr. 76 – 78. – 3.
Trên vuông chiếu đời ta / Luân Hoán// Văn học. – 1974. – Số 186. – Tr. 52 – 56. – 5.
Thơ cú mọc như râu như tóc / Luân Hoán// Văn học. – 1970 Số 151. – Tr. 1 – 2. – 2.
Thơ nhạc Việt Nam / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 74. – Tr. 86 – 86. – 1.
Mùa xuân / Luân Hoán// Văn học. – 1964 Số 1516. – Tr. 1 – 1. – 1.
Mùa xuân mời em ngồi lại / Luân Hoán// Văn học. – 1974. – Số 178. – Tr. 102 – 103. – 2.
Vỗ về / Luân Hoán// Văn học. – 1966. – Số 55. – Tr. 52 – 52. – 1.
Ra phố / Luân Hoán// Văn học. – 1971. – Số 128. – Tr. 78. – 1.
Trái tim hành quân ; Trên thềm tim ai / Hà Nguyên Thạch , Luân Hoán// Văn học. – 1968. – Số 84.
Lời xin / Luân Hoán// Văn học. – 1965. – Số 49. – Tr. 1 – 2. – 2.
Lục bát trong trại nhập ngũ số 1 / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 78. – Tr. 31 – 32. – 2.
Mừng có ba mươi tuổi / Luân Hoán// Văn học. – 1971. – Số 125. – Tr. 69 – 71. – 3.
Khúc ca buồn / Luân Hoán// Văn học. – 1951. – Số 34. – Tr. 48 – 48. – 1.
Ca dao tình yêu / Luân Hoán// Văn học. – 1965. – Số 51. – Tr. 88 – 89. – 2.
Đoạn kết cho người tình / Luân Hoán// Văn học. – 1966. – Số 59. – Tr. 31. – 1.
Trả lời thư xuân hậu phương / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 81. – Tr. 43 – 44. – 2.
Đầu thai / Luân Hoán// Văn học. – 1964 Số 1516. – Tr. 1 – 1. – 1.
Thi ca / Luân Hoán// Văn học. – 1964. – Số 22. – Tr. 1 – 2. – 2.
Đầu tay mùa xuân / Luân Hoán// Văn học. – 1966. – Số 53. – Tr. 33 – 34. – 2.
Vết thương cho người thân yêu / Luân Hoán// Văn. – 1969 Số 133. – Tr. 59 – 64. – 6.
Chúc mừng của người lên đường / Luân Hoán// Văn học. – 1945. – Số 47. – Tr. 1 – 2. – 2.
Tháng bảy nhớ người / Luân Hoán// Văn học. – 1964. – Số 21. – Tr. 1 – 1. – 1.
Thắp một ngọn hương cho bàn chân trái / Luân Hoán// Văn học. – 1969. – Số 91. – Tr. 88 – 91. – 4.
Nội chiều / Luân Hoán// Văn học. – 1968. – Số 82 – 83. – Tr. 1 – 1. – 1.
Về nằm lại nơi mới cưới / Luân Hoán// Văn học. – 1972. – Số 157. – Tr. 52. – 1.
Tâm sự cùng em trai / Luân Hoán// Văn học. – 1964. – Số 22. – Tr. 49 – 51. – 3.
Thư tình trên rừng cao / Luân Hoán// Văn học. – 1965. – Số 38. – Tr. 1 – 1. – 1.
Chiến tranh / Luân Hoán// Văn học. – 1968. – Số 0. – Tr. 1 – 1. – 1.
Rước mẹ đầu năm / Luân Hoán// Văn học. – 1971. – Số 120. – Tr. 123 – 124. – 2.
Đầu quân / Luân Hoán// Văn học. – 1964. – Số 24. – Tr. 1 – 1. – 1.
Gọi / Luân Hoán// Văn học. – 1973. – Số 172. – Tr. 111 – 112. – 2.
Giọng buồn lang thang / Luân Hoán// Văn học. – 1951. – Số 35. – Tr. 75 – 75. – 1.
Xin Huế một người tình / Luân Hoán// Văn học. – 1974. – Số 182. – Tr. 32 – 33. – 2.
Tiệc mừng anh lên đường / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 78. – Tr. 1 – 1. – 1.
Lễ vậ t giỗ Mẹ / Luân Hoán// Văn học. – 1965. – Số 38. – Tr. 1 – 2. – 2.
Tỏ tình trong mùa xuân / Luân Hoán// Văn học. – 1968. – Số 85 – 86. – Tr. 1 – 8. – 8.
Từ lòng chiến trậ n / Luân Hoán// Văn học. – 1964. – Số 30. – Tr. 58 – 59. – 2.
Choàng hoa cho quê hương / Luân Hoán// Văn học. – 1969. – Số 96. – Tr. 1 – 4. – 4.
Đêm 30 trên đồi lâm lộc / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 80. – Tr. 43 – 44. – 2.
Hạnh phúc bắt gặp / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 78. – Tr. 1 – 1. – 1.
Luân Hoán Cao Thoại Châu và tình khúc cuối ở KBC 4100 / Luân Hoán, Cao Thoại Châu// Văn học. – 1967. – Số 79. – Tr. 97 – 101. – 5.
Bình minh hạnh phúc / Luân Hoán// Văn học. – 1974. – Số 193. – Tr. 30 – 31. – 2.
Lời đầu xuân / Luân Hoán// Văn học. – 1951. – Số 31. – Tr. 6 – 6. – 1.
Thân phậ n / Luân Hoán// Văn học. – 1951. – Số 33. – Tr. 37 – 37. – 1.
Đối thủ / Luân Hoán// Văn học. – 1951. – Số 33. – Tr. 48 – 48. – 1.
Chiếc quan tài cho Trần Mỹ Lộc / Luân Hoán// Văn học. – 1967. – Số 80. – Tr. 36 – 37. – 2.
Đính hôn / Luân Hoán// Văn học. – 1965. – Số 45. – Tr. 46 – 47. – 2.
Bậ c đàn anh / Luân Hoán// Văn học. – 1964. – Số 24. – Tr. 1 – 1. – 1.
Gia đình tôi / Luân Hoán// Bách khoa. – 1963 Số 148. – Tr. 70 – 70. – 1.
Mắt chiều / Luân hoán// Văn. – 1964. – Số 11. – Tr. 14 – 14. – 1.
Cánh cửa lớn / Luân Hoán// Bách khoa. – 1964 Số 190. – Tr. 52 – 53. – 2.
Gốc cây núp đạn / Luân Hoán// Bách khoa. – 1964 Số 192. – Tr. 59 – 59. – 1.
Di cư trên sông / Luân Hoán// Bách khoa. – 1964 Số 192. – Tr. 59 – 59. – 1.
Chân cầu thanh xuân / Luân Hoán// Bách khoa. – 1964 Số 192. – Tr. 59 – 59. – 1.
Hoài Niệm / Luân Hoán// Bách khoa. – 1964 Số 172. – Tr. 66 – 66. – 1.

MƯỜNG MÁN:


Thư từ cho Huế / Mường Mán// Văn. – 1968 Số 110. – Tr. 69 – 78. – 10.
Đưa người về Đà Nẵng / Mường Mán// Văn. – 1972. – Số 208. – Tr. 119 – 121. – 3.
Mùa thu đã gần kề / Mường Mán// Văn. – 1971 Số 187. – Tr. 15 – 32. – 18.
Cát bụi ngàn khơi / Mường Mán// Văn. – 1972. – Số 210. – Tr. 43 – 54. – 12.
Những chùm hoa vàng cho chị / Mường Mán// Văn. – 1968 Số 104. – Tr. 33 – 38. – 6.
Khúc hát dưới núi / Mường Mán, Nguyễn Phan Thịnh// Văn. – 1981 Số 180. – Tr. 27 – 28. – 2.
Dấu Thánh / Mường Mán// Văn. – 1970 Số 158. – Tr. 1 – 16. – 16.
Mùa sẽ còn dài / Mường Mán// Văn. – 1970 Số 151. – Tr. 70 – 80. – 11.
Lời dặn dò / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 130. – Tr. 40 – 40. – 1.
Giữa đám đông / Mường Mán// Văn. – 1973 Số 225. – Tr. 82 – 88. – 7.
Ngoài vườn sương / Mường Mán// Văn. – 1971 Số 172. – Tr. 23 – 34. – 12.
Những sớm mai Việt Nam / Mường Mán// Văn. – 1966. – Số 64. – Tr. 109 – 110. – 2.
Những bao cát mục / Mường Mán// Văn. – 1970 Số 148. – Tr. 29 – 41. – 13.
Trong xác là tháng Chạp / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 121. – Tr. 36 – 38. – 3.
Ai xuôi vạn lý / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 131. – Tr. 25 – 34. – 10.
Về giữa mùa hè / Mường Mán// Văn. – 1970 Số 164. – Tr. 49 – 62. – 14.
Dấu chim cát lấp / Mường Mán// Văn. – 1967. – Số 82. – Tr. 50 – 50. – 1.
Tình khúc vụn / Mường Mán// Văn. – 1967. – Số 82. – Tr. 50 – 50. – 1.
Mùa trái chín / Mường Mán// Văn. – 1972. – Số 208. – Tr. 121. – 1.
Về bên cổ thành / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 143. – Tr. 48 – 48. – 1.
Khoảng cách mỗi người / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 130. – Tr. 45 – 54. – 10.
Thềm gió / Mường Mán// Văn. – 1970 Số 149. – Tr. 69 – 79. – 11.
Ngợi ca tháng chạp / Mường Mán// Văn. – 1972. – Số 0. – Tr. 127 – 128. – 2.
Hình sương bóng khói / Mường Mán// Văn. – 1971 Số 181. – Tr. 39 – 53. – 15.
Vĩnh biệt mày, bợm nhậ u / Mường Mán// Văn. – 1971 Số 185. – Tr. 49 – 58. – 10.
Những mùa trăng ca múa / Mường Mán, Huỳnh Phan Anh// Văn. – 1972 Số 197. – .
Bài đồng dao cuả bé / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 138. – Tr. 43 – 44. – 2.
Ngã ba / Mường Mán// Văn. – 1970 Số 151. – Tr. 34 – 45. – 12.
Trăng mậ t / Mường Mán// Văn. – 1966 Số 135. – Tr. 62 – 62. – 1.
Cô bé tên Tiên / Mường Mán// Văn. – 1971 Số 176. – Tr. 11 – 21. – 11.
Những chỗ ngồi bỏ trống / Mường Mán// Văn. – 1968 Số 105. – Tr. 89 – 95. – 7.
Chuyện miền ruộng / Mường Mán// Văn. – 1968 Số 104. – Tr. 37 – 43. – 7.
Quê hương sau cùng / Mường Mán// Văn. – 1966. – Số 64. – Tr. 109 – 110. – 2.
Một chút mưa thơm / Mường Mán// Văn. – 1971 Số 174. – Tr. 60 – 60. – 1.
Đôi mắt lên mười / Mường Mán// Văn. – 1969 Số 125. – Tr. 15 – 21. – 7.
Triển lãm / Mường Mán// Văn. – 1966. – Số 60. – Tr. 126 – 126. – 1.
Mùa hạ mán / Thơ mường mán// Văn. – 1966. – Số 56. – Tr. 109 – 109. – 1.
Vườn cây / Mường Mán// Bách khoa. – 1968 Số 284. – Tr. 48 – 55. – 8.

TRẦN HOÀI THƯ


Lệ mềm / Trần Hoài Thư// Văn. – 1971 Số 188. – Tr. 71 – 80. – 10.
Mùa xuân ly biệt / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1970 Số 151. – Tr. 85 – 94. – 10.
Ga đêm quạnh quẽ / Trần Hoài Thư// Văn. – 1971 Số 176. – Tr. 23 – 34. – 12.
Quán đợi hoàng hôn / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1971. – Số 127. – Tr. 99 – 107. – 9.
Con đường / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1974. – Số 189. – Tr. 54 – 69. – 16.
Nước mắt cho kẻ trở về / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1971. – Số 129. – Tr. 72 – 79. – 8.
Lời xin / Trần Hoài Thư// Văn. – 1967. – Số 92. – Tr. 101 – 101. – 1.
Mùa sứ / Trần Hoài Thư// Văn. – 1972. – Số 207. – Tr. 65 – 83. – 19.
Về thành / Trần Hoài Thư// Văn. – 1971 Số 187. – Tr. 5 – 13. – 9.
Trời mưa nhớ Huế / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1974. – Số 182. – Tr. 36 – 49. – 14.
Khu chiến / Trần Hoài Thư// Văn. – 1971 Số 181. – Tr. 65 – 76. – 12.
Thư về miền Trung đau khổ / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1945. – Số 47. – Tr. 50 – 51. – 2.
Thơ về Huế / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1969. – Số 94. – Tr. 98 – 100. – 3.
Một ngày trở lại thành phố / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1971. – Số 119. – Tr. 60 – 71. – 12.
Một loài chim thiên di / Trần Hoài Thư// Văn. – 1973 Số 219. – Tr. 64 – 70. – 7.
Mùa xuân trên cao / Trần Hoài Thư// Văn. – 1972 Số 196. – Tr. 8 – 14. – 7.
Câu chuyện một mùa xuân / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1968. – Số 85 – 86. – Tr. 195 – 200. – 6.
Biển Đen : Tâm sự một thanh niên / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1968. – Số 82 – 83. -
Nhật ký hành quân / Trần Hoài Thư// Văn. – 1968. – Số 102. – Tr. 79 – 86. – 8.
Mắt đêm / Trần Hoài Thư// Văn. – 1969 Số 121. – Tr. 39 – 50. – 12.
Sao chổi ( tiếp NCVH 8 ) / Trần Hoài Thư// Nghiên cứu văn học. – 1971. – Số 9. – Tr. 79 – 98. – 20.
Những cơn mơ cuối năm / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1974. – Số 197. – Tr. 78 – 90. – 13.
Cõi sa mạc / Trần Hoài Thư// Văn. – 1968 Số 104. – Tr. 49 – 61. – 13.
Vườn thánh / Trần Hoài Thư// Văn. – 1969 Số 127. – Tr. 53 – 58. – 6.
Trường hợp một người / Trần Hoài Thư// Văn. – 1969 Số 140. – Tr. 49 – 57. – 9.
Một lần trở lại / Trần Hoài Thư// Văn. – 1973 Số 192. – Tr. 54 – 61. – 8.
Những Cánh chim tuyệt vời / Trần Hoài Thư// Văn. – 1971 Số 172. – Tr. 47 – 54. – 8.
Khung cửa sổ bên giòng dông hương / Trần Hoài Thư// Văn. – 1970 Số 151. – Tr. 87 – 93. – 7.
Sao chổi / Trần Hoài Thư// Nghiên cứu văn học. – 1971. – Số 8. – Tr. 104 – 112. – 9.
Trên đỉnh trời mù / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1971. – Số 125. – Tr. 21 – 28. – 8.
Nói chuyện với tác giả “Như cánh chim bay” / Trần Hoài Thư// Văn. – 1966 Số 135. -
Bệnh xá cuối năm / Trần Hoài Thư, Mai Thảo// Văn. – 1972 Số 197. – Tr. 9 – 16. – 8.
Một vùng sương khói / Trần Hoài Thư// Văn. – 1969 Số 132. – Tr. 15 – 20. – 6.
Thư gởi Năm Râu / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1973. – Số 164. – Tr. 38 – 45. – 20.
Gọi người xa vắng / Trần Hoài Thư// Văn. – 1970 Số 151. – Tr. 84 – 93. – 10.
Cuối bờ xa cách / Trần Hoài Thư// Văn học. – 1974. – Số 193. – Tr. 62 – 71. – 10.
Chuyến phà đầu xuân / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1967 Số 245. – Tr. 68 – 68. – 1.
Những giọt nước mắt của bé danh / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1967 Số 254. – Tr. 76 – 76. – 1.
Cơn giông / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 288. – Tr. 45 – 49. – 5.
Màu xanh lá hẹ / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1967 Số 250. – Tr. 79 – 79. – 1.
Tháp cổ / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 273. – Tr. 79 – 79. – 1.
Mai em có về / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 277. – Tr. 75 – 75. – 1.
Một vi sao lạ / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 265. – Tr. 116 – 116. – 1.
Về trời / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 276. – Tr. 58 – 58. – 1.
Trưa địa ngục / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 276. – Tr. 55 – 58. – 4.
Tháng giêng / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 272. – Tr. 47 – 47. – 1.
Những người ở lại / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 281. – Tr. 59 – 62. – 4.
Tháng bảy mưa nguồn / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1968 Số 282. – Tr. 55 – 55. – 1.
Ngày đầu làm lính / Trần Hoài Thư// Bách khoa. – 1967 Số 260. – Tr. 77 – 77. – 1.

Thống kê trên đã chứng minh về sự đóng góp rất lớn lao của những người viết trẻ mà đại đa số đều sống và viết ngoài vòng đai saigon. Họ đã viết trong hoàn cảnh và điều kiện như thế này. Vậy mà sức sáng tác của họ quả thật kinh khủng !

“…Vâng, hãy cho tôi trở về cùng những ngày tháng cũ. Chiếc bè đã đưa tôi vào dòng văn chương không phải đẹp và dịu dàng như một giấc mơ. Mà trái lại, văn chương bấy giờ là văn chương của lửa, lệ, và những gào thét, tra vấn, tử sinh. Văn chương bấy giờ là những ngày đêm trong lòng hỏa ngục, là những vết thương toé máu đớn đau, là tiếng kêu trầm thống của một thế hệ mà, nói theo ý Tolstoi, chỉ những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến, còn phần chết thì dành cho bọn thanh niên. Nó là văn chương mà yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, chứ không phải từ cửa miệng đầu môi của những lãnh tụ, đồ tể chiến tranh, hay từ những môi miệng tuyên truyền tâm lý chiến. Đó là văn chương đích thật, bởi vì từng hơi thở, từng giọt lệ, từng cay đắng, thù hận, từng nỗi buồn rầu già trước tuổi đã cấy đã hằn theo từng chữ. Chúng tôi tự hào đã nói tất cả những gì chúng tôi muốn nói, muốn nghĩ, muốn tra vấn. Chúng tôi đã tạo nên những trận sấm sét phá sập nền văn chương tháp ngà. Chất liệu văn chương của chúng tôi không phải là từ đơn đặt hàng của chế độ, hay những món hàng làm dáng du nhập từ ngoại quốc mà là sự thật bằng trái phá, bằng mồ mả oan khiên, bằng những người như chúng tôi bị nướng thiêu trong lò lửa chiến tranh…” (**)

Hay :

“Tôi đang nằm viết trong đêm. Nơi Xóm Cạnh Đền. Hỏa châu thoi thóp từ một đồn bót nào trong lãnh thổ Kiên Long [Kiến Phong.] Con rồng lửa đang phun những cầu vồng đạn lửa đỏ từ trên trời xuống một trận địa. Một đơn vị bạn nào đang chạm địch đâu đây? Nhìn qua mùng dưới ánh đèn bấm chập chờn. Muỗi từng đàn đậu đen như thóc và bay liệng lao xao… “

Người viết thư này là nhà văn Song Linh, từng có bài đăng trên Sáng Tạo. Đọan này được trích từ một bài đăng trên KH số 42, 1970. Sau đó,tác giả tử trận ngày 24.1.1970. (***)

Như vậy, lọai văn chương được viết trên ban lô, trên thùng đạn pháo binh, trên bao cát phòng thủ, dưới hầm ẩn trú, là lọai văn học gì ? Có phải là văn học đô thị?***
(1) Mai Thảo – Saigon thủ đô văn hóa VN . Sáng Tao số 1 tháng 10-1956
(2)Cô Phương Thảo: Tình hình văn nghệ trong năm 1960, Bách Khoa số 97 15/1/1961)
(3) Mai Thảo: Con đường trở thành và tiến tới của nghệ thuật hôm nay, Sáng Tạo số 6 (bộ mới) tháng 12 -1960 & tháng 1-1961
(có thể đọc bản chụp gốc trên Blog:
http://tranhoaithux.wordpress,com trong category: Sang tao)
(4) Bộ thơ miền Nam trong thời chiến gồm 5 tập do Thư Ấn Quán xb vào năm 2009, tổng cọng khỏang 400 nhà thơ.
(*) Trong tạp bút “Âm Bản” đăng trên tạp chí Khởi Hành, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền thú nhận: “Đã lâu lắm tôi không làm thơ. Có đến mười năm. Tập thơ cuối cùng đã làm hồi 59-60…” (tạp chí Khởi Hành số 51, năm 1970).
(**) Trần Hoài Thư – Đại đội cũ & Trang sách cũ, Thư Ấn Quán xuất bản 2009
(***) Viên Linh: Tuổi Trẻ Trong Thơ Văn Miền Nam Những Năm ’69, ’70, nguồn: Internet.

http://tranhoaithux.wordpress.com/

Đỗ Phương Khanh
08-01-2014, 11:22
.

trăm năm văn học tự do: văn học miền nam
hay “văn học đô thị miền nam 1954-1975”?
Nguyễn Tà Cúc


http://www.damau.org/wp-content/uploads/2014/07/VHMN-cover_thumb.jpg (http://www.damau.org/wp-content/uploads/2014/07/VHMN-cover.jpg)

Hình bìa tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Chúng Ta,
bao gồm các nhà văn tiêu biểu của Việt Nam Cộng Hòa
(nxb Sóng: 1973)


http://www.damau.org/wp-content/uploads/2014/07/VHDTMN-Cover_thumb.jpg (http://www.damau.org/wp-content/uploads/2014/07/VHDTMN-Cover.jpg)

Hình bìa quyển Lý Luận – Phê Bình Văn Học ở Đô Thị Miền Nam 1954-1975 (nxb Hội Nhà Văn: 2009)


Sau 1975, những nhóm chữ như "Văn học Đô thị Miền Nam 1954-1975" –thay cho Văn học Miền Nam– và "vùng giải phóng Miền Nam" , "vùng tạm chiếm" –thay cho Việt Nam Cộng hòa (tức là Miền Nam, nơi có nền Văn học Miền Nam)– bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam trong các công trình khảo cứu của những học giả hay trong lãnh vực giáo dục bởi những người có trách nhiệm huấn luyện và đào tạo những học giả tương lai. Đây là vài thí dụ tiêu biểu:

''[...]Còn nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng thì cho rằng: Không nên phân biệt văn học nông thôn, thành thị hay công nhân mà gọi chung là văn học Việt Nam[...]Khi nói về “văn học đô thị” nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng nói thêm: “Văn học đô thị là từ chỉ văn học ở lãnh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính phủ Sài Gòn tồn tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền Nam trước đây”….”
(Ngân Hà, "Văn học đô thị- Mảnh đất bị bỏ hoang," Ngày 7.5.2009, Nguồn: Văn học quê nhà


http://www.thotre.com/luutru/index.php?menu=detail&mid=3&nid=2313

(Giáo sư Bùi Việt Thắng từng giữ chức Phó trưởng bộ môn Văn học Việt Nam Hiện đại, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội)

“Sau năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Và văn học cũng bị phân chia: một nền văn học cách mạng ở miền Bắc và ở các vùng giải phóng của miền Nam, và một nền văn học ở vùng tạm bị chiếm miền Nam. Tất nhiên, sự phân chia này chỉ là tương đối, trên thực tế ta có thể nói tới một “dòng văn học tiến bộ” trong vùng bị chiếm ở miền Nam…." (Nguyễn Văn Dân, "Dấu ấn phương tây trong văn học Việt Nam hiện đại – vài nhận xét tổng quan,”
Nguồn: Tạp chí Văn Học 2-1997,
http://www.viet-studies.info/NguyenVanDan_DauAnPhuongTay.htm

“Đầu năm 2013, đúng 80 năm thành lập tổ chức văn học Tự lực văn đoàn và công bố bài Tình già của Phan Khôi mở ra Phong trào thơ mới (1932), NXB Thanh niên cho ra mắt tập nghiên cứu phê bình Nhìn lại Thơ mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn. Sách do PGS. Trần Hữu Tá, PGS Nguyễn Thành Thi, PGS Đoàn Lê Giang chủ biên. Đây là công trình hợp tác giữa giữa Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, Trường Đại học sư phạm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ (Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM), tạp chí Thế giới Mới…."
(
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/
(Trích Mục lục)

45. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đến tiểu thuyết ở đô thị Nam Bộ 1945-1954
– Nguyễn Thị Phương Thuý

46. Tự lực văn đoàn với lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975
– Trần Hoài Anh…

Chương 4: THƠ MỚI VÀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN TRONG NHÀ TRƯỜNG

47. Văn chương Tự lực văn đoàn trong đời sống văn học và giáo dục đô thị miền Nam 1954-1975
– Lê Ngọc Thuý

2. Giai đoạn 1954-1975: đất nước chia đôi, văn học tồn tại hợp thức dưới hai chính thể nhà nước thuộc hai khối đối địch nhau. Văn học miền Bắc (và vùng giải phóng miền Nam) vừa kế thừa lớp người cầm bút trong kháng chiến chống Pháp vừa có thêm nhiều lực lượng trẻ góp mặt, mục tiêu quán xuyến là xây dựng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh chống Mỹ ngụy. Văn học miền Nam không chỉ là lực lượng tại chỗ về sau ngày càng đông đảo, mà còn được bổ sung từ Hà Nội và các vùng kháng chiến hồi cư, không chủ trương định hướng sáng tác, thả lỏng cho mọi sự sáng tạo tự do, vì thế nhiều khuynh hướng đối lập cùng song song tồn tại, có chống cộng và hòa giải, tâm lý chiến và phản chiến, lại có cả văn chương đứng ngoài chính trị…

3. Giai đoạn từ sau 1975: đất nước thu về một mối tạo điều kiện cho nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa mở rộng thành văn học cả nước, cất tiếng ca tưng bừng "Việt Nam – Hồ Chí Minh" của người chiến thắng, đưa lên "tượng đài" hình ảnh người anh hùng đánh Mỹ, và từng bước dõi theo tư thế của con người ấy trong cuộc sống hòa bình. Trong khi đó, ở nhiều nước có cộng đồng người Việt di tản, một dòng văn học hải ngoại ra đời, buổi đầu cũng do lực lượng văn nghệ sĩ cũ ở miền Nam đóng vai trò chính, vừa bàng hoàng phẫn hận trước bi kịch đổ vỡ của những con người ở phía bên kia cuộc chiến, vừa dày vò trong nghịch cảnh lưu vong : phải trải qua muôn nghìn khổ ải để tìm đất hứa, bơ vơ nơi xứ lạ, nỗ lực hội nhập để sống còn nhưng vẫn không quên khẳng định "căn cước" của chính mình… Cách phân chia này tưởng cũng dễ được nhiều người thừa nhận…."
(Nguyễn Huệ Chi, Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử văn học nhìn từ điểm đầu thế kỷ XXI, Phần II-Có hay không một thời kỳ Văn học Cận đại,
http://chimviet.free.fr/dantochoc/chung/nhcl052.htm


Văn học các đô thị Miền Nam 1954-1975 (Một môn học được dậy tại Đại học Đà Lạt-2 tín chỉ) Dành cho sinh viên năm 3&4
-Tiến sĩ Nguyễn Đình Hảo biên soạn

"Trường Đại học Đà Lạt là một trường công lập được thành lập theo Quyết định số 426/TTg ngày 27 tháng 10 năm 1976 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở Viện Đại học Đà Lạt, một trường tư thục thành lập trước 1975 và bắt đầu đào tạo đại học từ niên khóa 1958 – 1959. Tính từ thời điểm 1958 đến nay, Trường Đại học Đà Lạt đã trải qua chặng đường 55 năm hình thành…"
(
http://www.dlu.edu.vn/introduce.aspx?orgId=1&aboutid=12
“[...]Văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 phát triển trong bối cảnh chiến tranh và chia cách ấy. Tiếng nói và sự hoài niệm của những nhà văn gốc Bắc xa quê, dĩ nhiên góp phần đáng kể trong việc thể hiện hình ảnh Hà Nội; nhưng quan trọng hơn, đó còn là sự đồng vọng của cả dân tộc, đất nước hướng về cội nguồn[...]Như vậy, Hà Nội là một địa chỉ có thực đồng thời là một không gian – bối cảnh nghệ thuật được nhiều tác phẩm văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 quan tâm đến. Hình ảnh chung nhất của Hà Nội qua các truyện ngắn, truyện dài và tùy bút là:Hà Nội đẹp vì Hà Nội là thủ đô, là thành phố lớn, là nơi hội tụ thu hút nhiều người, là nơi tỏa sáng vì sự sang trọng, giàu có của nó[...]Ngoài cảnh đẹp và những đặc tính của một thành phố lớn, một thủ đô lâu đời; Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975 được nhấn mạnh ở chiều sâu văn hóa[...]Viết và kể chân thực về Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975 vừa là tình cảm chủ quan của con người đối với quê hương, bản quán; vừa như qui luật khách quan của đời sống văn học: xu hướng bù trừ, cân bằng với cái đã mất. Hà Nội không mất, nhưng sự cách biệt với Hà Nội có thể khiến cho việc ngóng trông, đồng vọng trở nên tha thiết hơn. Đây cũng là điểm giống nhau hay là sự tiếp nối giữa giai đoạn văn học trước 1975 với tình hình sáng tác của người Việt ở hải ngoại sau 1975. [...]Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những dòng hoài niệm về quê hương, xứ sở. Xét ở phương diện văn hóa, đó cũng là cách ứng xử của nhà văn với giá trị văn hóa truyền thống. Vậy nên, hình ảnh Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 ngoài giá trị văn chương, còn là một giá trị văn hóa…."
(Nguyễn Thị Thu Trang, "Hình ảnh Thăng Long-Hà nội trong văn xuôi đô thị Miền Nam Giai đoạn 1945-1975,” Ngày 24 .9. 2010,
http://vanhoanghean.com.vn

Giáo sư Nguyễn Thị Thu Trang hiện là "giảng viên chính, Phó trưởng khoa Khoa học cơ bản Trường Đại học Phú Yên" và " vừa bảo vệ xuất sắc luận án tiến sĩ chuyên ngành Lý thuyết và Lịch sử văn học … với đề tài “Con người và những giá trị văn hóa truyền thống trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975” … tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn -Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh."
(19/10/2008, [URL]
http://www.baophuyen.com.vn/79/30220/nha-giao-nguyen-thi-thu-trang-bao-ve-xuat-sac-luan-an-tien-si-ngu-van.html)

Đọc những thí dụ dẫn chứng, nhất là thí dụ của Giáo sư Nguyễn Thị Thu Trang thì người đọc đương nhiên nhận ra cái vói tay hơi dài từ Hà nội ra Sài gòn, nay còn muốn vói qua đại dương với cái kiểu viết lách “Nhiều truyện và tiểu thuyết tiếng Việt ra đời ở nước ngoài được xem như những dòng hoài niệm về quê hương, xứ sở. Xét ở phương diện văn hóa, đó cũng là cách ứng xử của nhà văn với giá trị văn hóa truyền thống. Vậy nên, hình ảnh Hà Nội trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 ngoài giá trị văn chương, còn là một giá trị văn hóa."

Nguyễn Thị Thu Trang khi viết những dòng này hẳn chưa bao giờ được biết tới "slogan" Chúng ta đi mang theo quê hương của đợt di cư lần thứ nhất 1954 rồi di tản lần thứ hai 1975. Bà hẳn cũng chưa được đọc bài viết phũ phàng về Hà Nội của Mai Thảo, một người Bắc di cư vào Nam, (và lời tôn vinh Sài gòn là thủ đô văn hóa của ông trong một bài khác):

-" [...] Kẻ thù không sợ chúng ta ở xa hay về gần. Điều nó sợ là ở xa hay gần mỗi chúng ta vẫn cứ là một khối sống rực rỡ. Cho nên đi hay ở đã không thành vấn đề. Đi không phài là tỵ nạn là mất gốc. Những cái mà tôi, mà anh, những người Hà Nội hiến dâng, góp phần vào cho sự sống ở Sài gòn, ở khắp nơi hôm nay mới chính là Hà nội, cái phần tinh hoa, cái phần quý giá nhất của Hà nội. Chúng ta đi mang theo quê hương, chúng ta đi mang theo Hà Nội là vì thế. Mà cũng chính là trong lối sống mà chúng ta đang chiến đấu, đang bảo vệ cho Hà nội, để vẫn là những người Hà nội. "
(Mai Thảo, “Quê hương trong trí nhớ," Sáng Tạo, tháng 10.1958, trang 19-24-Tài liệu của Viên Linh)


Hay lời xác quyết của Tam Lang, Mặc Đỗ, Vũ Khắc Khoan và Đinh Hùng, những người chủ trương nhật báo Tự Do (1954-1955) , rằng Hà Nội là "một chế độ mà điều kiện tồn tại là sự thủ tiêu hoàn toàn nhân tính của con người”:


-"[...]Giờ này, liễu ven hồ Hoàn Kiếm đang đợi gió Đông để lên tơ. Nhưng mành tơ liễu quá lơ thơ chưa buông kín nổi tâm tư của người đất Bắc trăm mối vò nhầu.
Xuân có sang mà hoa không tươi…
Hoa ngoài trời không tươi mà hoa trong lòng người thật đã héo đi từ khi còn là nụ. Nỗi uất hận của người miền Bắc hiện quằn quại dưới một chế độ mà điều kiện tồn tại là sự thủ tiêu hoàn toàn nhân tính của con người–nỗi uất hận đó làm chén rượu mừng xuân của người Việt Miền Nam có nâng lên cũng không cạn nổi[...] Nỗi băn khoăn của người ngày nay cũng tương tự nỗi băn khoăn của thế hệ trước, khác một điều là những hiện tại phải được đặt trên một bình diện rộng lớn hơn nhiều, bởi phức tạp hơn, bởi vô cùng hiểm nghèo. Thế hệ trước thu gọn băn khoăn của mình trong hai chữ Độc Lập. Thế hệ ngày nay còn phải chiếu rọi băn khoăn lên thêm một chiều nữa: Tự Do. Thế hệ trước chỉ cần nhắm vào người dân Việt. Thế hệ của lũ chúng ta còn nhắm tới ý nghĩa của Con Người. Xuân năm Mùi vì thế được mệnh danh là XUÂN TỰ DO."
(Mặc Đỗ-đại diện Nhóm chủ trương Tự Do, "XUÂN TỰ DO", trang 1, Nhật báo Tự Do, Năm 1955, Sài gòn. Tranh bìa của Phạm Tăng)


Trong mắt nhiều nhà cầm bút Việt Nam, Hà nội chỉ còn là một phần đất không có tự do (nhóm Quan Điểm) một xác chết trên đất hương hỏa (Mai Thảo), hay những vụ hành hạ chôn sống địa chủ (Quách Thoại).

Cái "hoài niệm về quê hương, xứ sở" mà Nguyễn Thị Thu Trang nói đến là cái hoài niệm của một hay nhiều thành phố tự do đã mất, không phải cái -bây-giờ, cái Hà Nội không còn giọng Hà Nội, cái thủ đô của cả nước mà cho đến nay chưa có một nhà xuất bản tư nhân chính thức nào được phép hoạt động, cái phần đất "Mấy lần đất nước đứng lên/Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm" (Xuân Sách, "Nguyên Ngọc", Chân dung các nhà văn) mà mãi tới bây giờ những "anh hùng văn nghệ" như (Đại tá) nhà văn Nguyên Ngọc mới lóp ngóp đứng lên lo lập Văn đoàn độc lập sau bao năm im lặng hoàn toàn khi văn nghệ sĩ Miền Nam như Văn Quang, Tạ Tỵ, Tô Thùy Yên vv… bị giam trong tù.

Rồi giải nghĩa làm sao về việc các nhà văn Miền Nam kỳ cựu như Bình-nguyên Lộc cũng ra đi nốt?! Đó, đó mới là những cái mà nhà giáo dục và đồng nghiệp của bà Thu Trang cùng các học giả và lý luận phê bình xuất thân từ Miền Bắc cần nên biết tới. Vì nghiên cứu là gì nếu không đủ kiến thức và bản lãnh đến nỗi lại bỏ sức ra góp công cho một lịch sử nhân tạo?

Trong hai mươi năm mà Việt Nam Cộng Hòa tồn tại, nó có duy nhất một nền Văn học Miền Nam với Sài gòn là thủ đô nơi sinh hoạt báo chí và các tạp chí văn học lừng danh của nó mà các tác giả xuất hiện chính thức trên Sáng tạo, Tư tưởng, Giữ Thơm Quê Mẹ, Nghệ Thuật, Văn, Khởi Hành, Bách Khoa, Trình Bầy, Thời Tập v.v. mà bất kể là các tác giả xuất hiện trên những tạp chí đó sống ở đâu hay hành nghề gì.

Có thể đặt vấn đề ngược lại rằng, tại Miền Bắc, không ai lại đặt vấn đề là các nhà văn như Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, các nhà phê bình như Lại Nguyên Ân hay Vương Trí Nhàn hoặc các sử gia như Dương Trung Quốc sống ở đâu, hành nghề gì, bài gửi đến đóng dấu bưu điện ở "đô thị" nào. Người đọc chỉ cần biết đó là những tay viết có nghề có uy tín mà bài viết nay xuất hiện trên những tạp chí số một ở (thủ đô) Hà Nội. Cũng không ai bắt độc giả của các ông xòe giấy chứng minh họ cư ngụ tại nông thôn hay thành thị.

Như thế, nếu đặt dấu hỏi rằng một tác giả Miền Nam — miễn có xuất hiện trên các tạp chí văn nghệ hay/và có xuất bản– sống ở đâu, hành nghề nào, ka-ki hay không ka-ki, mặc mini hay midi, tại sao sáng tác hay dịch thuật, nhịp sáng tác mạnh hay chậm, sáng tác được bao nhiêu bài trong năm, sáng tác về đề tài chiến trường hay phòng trà gái nhẩy, sáng tác xong có gửi lên báo đặng "khoe" với mỹ nhân (như trường hợp họa sĩ CHÓE) hay làm biếng dúi vào một góc tủ, có biết uống rượu đế hay chỉ biết nhậu Coca Cola, sành thuốc lá Ba con năm hay mê Bastos. Hoặc đặt vấn đề cho độc giả của các tác giả Miền Nam là sống ở đâu thành thị hay nông thôn, hành nghề nào, ka-ki hay không ka-ki, mặc mini hay midi, ưa đọc bà Tùng Long ở hậu phương hay mê thơ Tô Thùy Yên nơi tiền tuyến, tại sao thích sáng tác thay vì dịch thuật vv. và vv. với Văn học Miền Nam 1954-1975 thì quả có phải là phi văn …học và đầy tính chính trị không? "

"Đầy tính chính trị" vì như thế, thêm vấn đề là một số nhà văn "giải phóng Miền Nam" mà hồi đó không có độc giả ở các đô thị Miền Nam, lại chỉ có độc giả là cây cối trong …rừng Xà-Nu thì các bạn Miền Bắc tính sao cho ổn thỏa?!

Lấy thí dụ điển hình là nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977). Ông sinh quán Biên Hòa, tập kết ra Bắc năm 1953, từng giữ chức Tư lệnh Khu bộ VII (1948 – 1953), và trở về Miền Nam năm 1965 tham dự cuộc đánh chiếm Miền Nam. Ông là người nổi tiếng với hai câu thơ: "Từ thuở mang gươm đi mở cõi/Ngàn năm thương nhớ đất Thăng long" và qua đời với chức "Hàm thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp". Nhưng ông không thuộc Văn học Miền Nam vì cái quy luật rất đơn giản này: tác phẩm của ông khi đó và độc giả của ông không xuất hiện tại Miền Nam 1954-1975. Cho nên, nếu áp dụng quy luật đơn giản mà rõ ràng ấy–tác giả thì phải có độc giả cho đàng hoàng và lập văn nghiệp bằng tác phẩm ít nhất cũng đã được xuất bản công khai hay sáng tác xuất hiện trên các tạp chí xuất bản chính thức tại một nơi nào đó– thì những vấn đề đưa ra như tác giả ở đâu, độc giả ở đâu vv …lập tức bị triệt tiêu ngay.

Ở trường hợp các "tác giả" lạ hoắc mà sau 1975 người ta mới được có dịp biết đến thì rất khó thuyết phục rằng họ thuộc Văn học Miền Nam dù là trong "rừng". Đó chỉ là cái vỏ đem các tác giả vô danh này lên ngang hàng với một loạt tác giả, học giả hay chủ bút hoặc thư ký tòa soạn lẫy lừng của Miền Nam bằng cách phát minh ra một vùng văn học là vùng "Văn học đô thị Miền Nam 1954-1975".

Người Cộng sản rất muốn đẩy hàng loạt tác giả, học giả hay chủ bút hoặc thư ký tòa soạn lẫy lừng này vào một khu vực rất nhỏ hẹp đó, nhất là các tác giả di cư đã đóng góp rất lớn vào sự đa dạng của Văn học Miền Nam ngay khi nó khởi hành, để ăn khớp với lịch sử do họ viết, rằng họ mới là người kiểm soát được hầu như 90 phần trăm của Việt Nam Cộng hòa. Nhóm tác giả di cư này còn là cái nhắm đặc biệt của người Cộng sản Việt Nam: họ đã di cư, nghĩa là họ chứng tỏ sự chống Cộng bằng hành động rất cụ thể. Hơn thế nữa, họ còn giúp làm vững Văn học Miền Nam bằng cách sáng lập, điều hành hay giữ trách nhiệm chủ nhiệm, chủ bút hoặc thư ký tòa soạn nhiều tạp chí văn học để giúp một phần trong việc cộng thêm điều kiện cho các thế hệ nhà văn trẻ tiến lên, lập thành một nền văn học phong phú và khởi sắc đến nỗi nay, sau khi Việt nam Cộng hòa và Văn học Miền Nam đã mất, chính người Cộng sản đã phải nghiên cứu về nó.

Những nhà văn di cư này đã làm để chống Cộng sản, để tạ ơn phần đất đã cho họ một chỗ dung thân và để tạ lòng tri kỷ mà không bao giờ có thể ngờ được rằng–60 năm sau khi người Cộng sản chiếm Miền Bắc rồi tiến chiếm Miền Nam 20 năm sau–những Tự do (thời Mặc Đỗ), những Sáng Tạo, những Thế kỷ 20, những Nghệ Thuật, những Văn, những Khởi Hành (Bộ cũ) vv nay tồn tại như những vì sao tỏa sáng mãi mãi trong một bầu trời Văn học Miền Nam tự do lấp lánh.

Cho nên, nhóm chữ "văn học đô thị Miền Nam 1954-1975" trong văn sử của người Cộng sản luôn luôn phải đi đôi với "vùng bị tạm chiếm" trong lịch sử của người Cộng sản để dựng lại tử thi Mặt trận Giải phóng Miền Nam mà chính người Cộng sản đã an táng cái chết không ma chay của nó ngay sau 1975.

Cho tới nay, khỏi cần dẫn chứng, ai cũng biết Mặt trận Giải phóng chỉ là một bức bình phong hữu danh vô thực để binh sĩ Miền Bắc có lý do có mặt ở Miền Nam. Chưa bao giờ người Cộng sản chiếm được vùng nào của Việt Nam Cộng Hòa, chưa bao giờ họ trương được lá cờ của họ tại bất cứ nơi đâu. Khi người nằm vùng của họ bị bắt thì chính Văn bút Việt Nam, một tổ chức hợp pháp thuộc Việt Nam Cộng Hòa, xin cho ra khỏi tù. Những nhóm như Trình Bầy vẫn được cho xuất bản, không phải vì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không đủ sức bắt-họ-bỏ-bót, mà vì họ được tự do, được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho phép có những hành động thiên tả.

Đó là điều rất quan trọng cần được lưu ý khi so sánh giữa chế độ tự do trong Nam và độc tài ngoài Bắc. Chính vì thế, chính vì sự tự do đó mà nay rất nhiều nhà nghiên cứu hay nhà văn sinh trưởng hoàn toàn trong chế độ độc tài Cộng sản không cách nào hiểu được các nhà văn theo cộng sản "yêu nước cách mạng" trong chiến tranh 1954-1975 lại được sống và chống chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngay tại Sài gòn mà hầu như không hề hấn gì, nghĩa là không riêng Trình Bầy mà bất cứ tác giả nào cũng không cần tốn một viên đạn mà vẫn có thể đứng giữa thủ đô Sài gòn đăng bài của tác giả ngoại quốc chống chính phủ Hoa Kỳ và bất đồng ý kiến với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, một chính phủ của một quốc gia tự do.

Cho nên, không bao giờ có một nền Văn học Đô thị Miền Nam1954-1975 nào hết mà chỉ có Văn học Miền Nam của Việt Nam Cộng Hòa.

Riêng trong vấn đề này, người viết nghĩ không có gì hay hơn là phỏng vấn các nhà văn Miền Nam–đối tượng nghiên cứu– xem ý kiến của họ ra sao. Để mở đầu, người viết sẽ phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Viên Linh. Xin xem phần Phụ lục dưới bài viết.

***
Phụ lục

Nguyễn Tà Cúc phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Viên Linh–hai người cầm bút trong Văn học Miền Nam 1954-1975– về nhóm chữ "Văn học đô thị Miền Nam" xuất hiện trong sách giáo khoa và tiều luận nghiên cứu sau 1975 tại Việt Nam

***
Phụ lục 1-Phỏng vấn nhà văn Nhật Tiến

Nguyễn Tà Cúc: Ra đi sau 1975, anh là một trong những nhà văn kỳ cựu, từng hoạt đông mạnh mẽ trong ngành báo chí ấn loát, lại từng là Phó chủ tịch của Văn Bút Việt Nam. Vậy xin anh chia sẻ suy nghĩ của anh về mấy chữ "văn học đô thị Miền Nam"?

Nhật Tiến: Tôi đã trả lời về mấy chữ này trong 2 lá thư gửi Nhà Thơ Hoàng Hưng , là người đã mời tôi tham dự đề án thực hiện mục “ Văn Học Đô Thị Miền Nam ”. Vì nội dung có tính cách hệ trọng có thể sẽ lôi cuốn sự quan tâm của rất nhiều người, nên thay vì nói vắn tắt để trả lời Tà Cúc, tôi xin công bố rộng rãi quan điểm của tôi về vấn đề này qua những đoạn quan trọng trong hai lá thư mà tôi đã phúc đáp lời mời kể trên. Trong lá thư thứ nhất, tôi khẳng định chỉ có "Văn học Miền Nam" của quốc gia Việt Nam Cộng hòa chứ không bao giờ có thứ "văn học đô thị" nào hết. Lá thư thứ nhất (1) có đoạn như sau :

" -T/g Anh Hoàng Hưng,

Tôi đã nhận được email của anh gửi, mà nội dung là thư mời đóng góp ý kiến và bài vở cho một mục có tên là “VH Đô Thị Miền Nam 1954-1975” sẽ được thực hiện trên trang blog vandoanviet.blogspot.com thuộc website
vanviet.info của Văn đoàn Độc lập VN mà trong đó anh là một thành viên chính.

Thưa anh, Thế nào là “Văn Học Đô Thị Miền Nam ” ?

Cái từ ngữ này khiến tôi không khỏi nhớ đến guồng máy tuyên truyền của miền Bắc ở vào thời kỳ cuộc chiến VN chưa chấm dứt. Họ đã gọi các sinh hoạt trên lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa là “ trên các tỉnh và Đô thị Miền Nam”, với ý nghĩa là "bọn Mỹ Ngụy chỉ co cụm trong các thành phố và không thể lui tới các các Nông thôn ở miền Nam, vì tất cả đã đồng loạt nổi dậy và đã đứng dưới ngọn cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam". Về mặt sách lược tuyên truyền trong cuộc chiến, luận điệu gian dối, hàm hồ ấy có thể hiểu được.

Nhưng nay chiến tranh đã chấm dứt gần 40 năm rồi, cái từ ngữ “Đô thị Miền Nam” tưởng đã bị chôn vùi theo các thứ rác rưởi lùm loạp của một giai đoạn trong lịch sử, ai ngờ bây giờ nó lại được lôi ra dùng lại, không phải do từ các bàn tay phù thủy tuyên truyền thực hiện, mà là do chính các nhà văn đã từng mạnh mẽ lên tiếng : ‘mong muốn góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.’ (trích bản Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam) [...]

Dĩ nhiên là bao giờ tôi cũng hết lòng mong mỏi quý anh luôn có được toàn quyền tự do trong các sinh hoạt văn hóa, nhất là trong lãnh vực sáng tác. Tuy nhiên điều đó cũng không thể buộc lòng chúng tôi cứ phải chạy theo mọi lời kêu gọi nhân danh tự do văn hóa. Qua cái từ ngữ được quý anh sử dụng ‘Văn Học Đô thị Miền Nam’, chúng tôi như đã bị đánh thức dậy bởi cái mùi vị khinh bỉ, miệt thị, kể cả những hận thù do chính rất nhiều thành phần có tính cách văn hóa đến từ miền Bắc mang lại. Và trên danh nghĩa của ‘những tên tội đồ mang cái án tay sai của Mỹ Ngụy’, chúng tôi đã bị phân biệt đối xử trong ròng rã bao nhiêu năm trời, ngay sau cuộc chiến.

Nhắc lại chuyện này không phải tôi cố khơi lại những hận thù.

Nhưng tôi phải khẳng định rằng không bao giờ chúng tôi thuộc vào hàng ngũ của cái gọi là “Văn Học Đô Thị Miền Nam ”. Trong suốt chiều dài của hơn 20 năm lịch sử VN (1954-1975), nước VN bị chia cắt thành 2 quốc gia hoàn toàn khác biệt : Ở miền Bắc là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và ở miền Nam là Việt Nam Cộng Hòa, bao gồm mọi đất đai kể cả nông thôn lẫn thành thị, trải dài từ Sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu và các vùng núi non lẫn hải đảo. Trong suốt thời gian ấy, chúng tôi, các học giả, các vị trí thức, các Thầy Cô Giáo và các văn nghệ sĩ….đã góp công tạo dựng một nền văn hóa của miền Nam trong đó có bộ phận văn học vẫn thường được gọi là ‘Văn Học Miền Nam 1954-1975′. Không bao giờ tồn tại cái gọi là ‘Văn Học Đô Thị Miền Nam’, (mà) chỉ có ‘toàn bộ ngành sáng tác văn học nghệ thuật của Việt Nam Cộng Hòa trên khắp lãnh thổ, từ nông thôn tới đô thị’ mà thôi. Vậy xin minh xác để mọi người cùng rõ."
(Nhà văn Nhật Tiến phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng nhân được mời tham dự "Mục Văn Học Đô Thị Miền Nam", Thư thứ nhất, Tháng 7, 2014).

Nguyễn Tà Cúc: Như vậy còn những tác giả thuộc …Mặt trận giải phóng mà sau này mới thấy xuất đầu lộ diện, trớ trêu thay, lại xuất đầu lộ diện ngay khi Hà nội tước vũ khí và cho Mặt trận Giài phóng Miền Nam về vườn?

Nhật Tiến: Trong thư phúc đáp thứ hai (2), tôi có nhắc đến "cái bộ phận ở rừng" này đấy chứ. Ai bây giờ cũng biết chủ trương chiếu cố miền Nam đã được Đảng CS đề ra trong Đại Hội III, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 9 năm 1960. Trên website của Đảng, có ghi rõ rằng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam đã họp ở Thủ đô Hà Nội để quyết định " đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông-Nam Á và thế giới…"

Thế nên, đây cũng là một phần câu trả lời của tôi:

-"[...] Trong cuộc chiến, cả một guồng máy tuyên truyền của CS ở miền Bắc đã được vận dụng tối đa, kể cả những tác phẩm văn nghệ bao gồm truyện ngắn, truyện dài, phóng sự, hồi ký …viết về cuộc “nổi dậy của nhân dân miền Nam” để chống Mỹ cứu Nước, nhưng nội dung đầy dẫy những sự kiện bịa đặt, dối trá….nhằm kích động căm thù để xô đẩy thanh niên nam nữ miền Bắc nhắm mắt lao vào cuộc chiến. Thật quá thảm và cũng quá đau thương cho cả một giai đoạn lịch sử đất nước do chính sách ngu dân của Đảng CSVN mà chứa đầy rẫy những điều dối trá, xuyên tạc. Nhiệm vụ duy trì VHMN tất nhiên ai đứng ra đảm trách cũng đều đáng trân quý, nhưng với điều kiện là phải trung thực, không còn vấn vương những lập trường, tư tưởng vốn chỉ là sản phẩm tuyên truyền nhất thời do nhu cầu chiếu cố miền Nam của chế độ miền Bắc. Và như thế, cái nhu cầu “phải nhắc đến văn hóa ở rừng” –như nhà văn Hoàng Hưng đã viết trong thư trao đổi ngày 9 tháng 7-2014: “Vậy chắc chắn phải bàn lại về cái tên, tuy sẽ phải nghĩ kỹ, vì nếu để tên VHMN thì sẽ nói sao về cái bộ phận "ở rừng"? “– thì theo sự suy nghĩ của tôi, đã không thích hợp mà còn tạo cơ hội gây ra nhiều cuộc tranh cãi gây tổn thương đến nhiều người như lòng tự trọng bị chà đạp, dĩ vãng đau thương vừa nguôi ngoai phần nào đã lại bị đem ra xỉ nhục khiến cho những nỗi đau trong quá khứ bật trỗi dậy, tất cả sẽ trở thành một trở ngại lớn đối với mục tiêu cao quý mà quý vị đã trưng ra trong Bản Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam…." (Nhà văn Nhật Tiến phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng nhân được mời tham dự "Mục Văn Học Đô Thị Miền Nam", Thư thứ hai, Tháng 7, 2014)

Nguyễn Tà Cúc: Như thế, Hoàng Hưng cũng là …biết điều đấy. Chúng ta nên ghi nhận thiện chí của họ. Theo Tà Cúc thì họ nên cẩn thận là phải. Một điều vẫn ám ảnh Tà Cúc từ ngay khi viết về Văn học Miền Nam là: liệu tài liệu hay/và nhân chứng mình có đủ hay đáng để mình tin cậy? Sau nữa, Tà Cúc vẫn bị ràng buộc bởi một suy nghĩ khác và suy nghĩ này thì hoàn toàn có tính tình cảm, không có tính khoa học mà Tà Cúc sẽ là người đầu tiên thú nhận: làm cách nào mà một người không sống ở thời đó, lại có thể lột tả được hết ý tình nghĩa là những rung động, những nhịp tơ cảm xúc của một thời một nơi mà mình không thể trải nghiệm được? Hầu như chỉ có người đã sống trong thời đó qua tình cảnh đó mới có thể chuyển hóa được những nhịp tơ ấy. Làm sao Tà Cúc lại có thể có được cái cảm xúc uất nghẹn của những nhà văn Miền Bắc phải đi bán máu để sống? Làm sao Tà Cúc có thể có cùng cái tần số quyết liệt khi nhà văn Miền Nam Đỗ Phương Khanh đứng bật dậy, chỉ vào mặt Mai Quốc Liên mà phản ứng khi hắn chê Miền Nam không có văn học hay văn hóa? Những bằng cớ trên giấy, bằng chữ nghĩa vv không cách nào có sức sống đặc biệt ấy. Cho nên, không riêng gì Hoàng Hưng và văn đoàn này, sự nghiên cứu văn học của một thời đã qua mà nhân chứng lại không còn nhiều là một thách đố lớn. Làm sao đương đầu với sự thách đố đó: cẩn trọng, cẩn trọng và cẩn trọng.

Nhật Tiến: Tà Cúc vừa nói “ Hầu như chỉ có người đã sống trong thời đó qua tình cảnh đó mới có thể chuyển hóa được những nhịp tơ ấy.”. Tôi thấy nhận xét này rất đúng và chỉ những người rất thấu hiểu và biết cảm thông sâu xa nỗi niềm của người trong cuộc thì mới đặt ra vấn đề “ cẩn trọng…cẩn trọng…cẩn trọng”. Trong vụ này, tôi cũng nghĩ là ban đầu, nhóm chủ trương thực hiện mục “Văn Học Đô Thị Miền nam” chỉ thiếu cẩn trọng mà thôi, bởi họ chưa bao giờ kinh qua những đớn đau, tủi nhục, mất mát cả tài sản lẫn sinh mạng mà “phe thắng cuộc” đã trút lên đầu chúng ta trong nhiều năm ròng rã. Nếu biết cẩn trọng hơn thì cái từ “Văn học Đô thị” đã chẳng bao giờ có thể được đưa lên bản văn mời gọi văn nghệ sĩ Miền Nam tham gia. Cho đến nay, cái mục ấy đã xuất hiện trên trang web Văn Việt.inform rồi, và cái tên đã được sửa lại là : “Văn Học Miền Nam” kèm lời giải thích ở phía dưới bài giới thiệu là : Văn học miền Nam 1954-1975 (tức nền văn học trong lãnh thổ thuộc Cộng hoà Việt Nam), hẳn với ngụ ý là Miền Nam, ngoài lãnh thổ VNCH (không phải "Cộng Hòa Việt Nam" như họ viết) hẳn còn có một phần đất khác, tức bộ phận “Rừng” chứ còn cái gì vào đây nữa. Nhưng thôi, vấn đề từ ngữ sử dụng ta cũng đã bàn kỹ rồi. Bây giờ chỉ còn chờ xem nội dung của cái mục này ngoài các tác giả miền Nam ra, có còn bài vở nào xuất hiện mà lại mang nội dung chống Mỹ cứu Nước, và miệt thị toàn bộ dân chúng miền Nam là bọn Ngụy bán Nước hay không. Chừng đó ta hãy bàn tiếp !

Nguyễn Tà Cúc: Đúng thế. Thời gian sẽ phơi bày mọi sự. Xin mượn lời của William Carlos Williams để cảm ơn anh đã trả lời Tà Cúc: "Thời gian là cơn lốc mà tất cả chúng ta đều lạc lối trong đó. Chỉ có ngay trong những nếp cuộn xoáy của chính cơn lốc đó, chúng ta mới tìm nổi phương hướng (thoát ra) cho chúng ta."

* Chú thích của người phỏng vấn:

A) Để độc giả tiện theo dõi những phát biểu của nhà văn Nhật Tiến liên quan đến Văn đoàn độc lập và Văn Việt, chúng tôi xin trích lại một vài đoạn trong hai lá thư email mà nhà thơ Hoàng Hưng trao đổi với nhà văn Nhật Tiến về những vấn đề này cho rộng đường dư luận.

1) Đoạn dưới đây trích trong email thứ nhất của Hoàng Hưng gửi Nhật Tiến, đề ngày 9.7. 2014. mời tham dự mục V(ăn) H(ọc) Đô thị Miền Nam:

- “[...] Đầu tháng 3, em đã cùng với 1 số bạn văn trong, ngoài nước lập ra Văn đoàn Độc lập VN và mời anh Nguyên Ngọc làm trưởng ban (mới chỉ gọi là Ban Vận động) và lập website
http://vanviet.info, mới lập thêm blog
http://vandoanviet.blogspot.com….Văn Việt quyết định mở mục VH Đô thị Miền Nam 1954-1975, sưu tầm những bài nghiên cứu và tác phẩm quan trọng nhất để giới thiệu tương đối hệ thống cho bạn đọc (tất nhiên chủ yếu là trong nước…" (Hoàng Hưng)

Kèm với email này, nhà thơ Hoàng Hưng cũng gửi theo bản văn kêu gọi thực hiện: “Văn Việt mở mục :Văn học đô thị miền Nam 1954-1975” lúc ấy chưa công khai phổ biến rộng rãi.

2) Sau khi nhận "Thư thứ nhất" của Nhật Tiến–tỏ sự bất đồng ý kiến– vào ngày 9.7.2014, Hoàng Hưng đã đáp lại trong email thứ hai, gửi đi cùng ngày, trong thư có đoạn :

- “[...]Vậy chắc chắn phải bàn lại về cái tên, tuy sẽ phải nghĩ kỹ, vì nếu để tên VHMN thì sẽ nói sao về cái bộ phận "ở rừng"? ..v.v… Tuy nhiên, em tin là sẽ tìm ra tên thích hợp để phục vụ đúng mục tiêu của tủ sách là giới thiệu những tinh hoa của nền văn học của VN Cộng hoà (nói chính xác chắc phải là thế), khẳng định giá trị và những đóng góp của nó cho VH VN hiện đại…” (Hoàng Hưng)

Đoạn văn trên chính là lý do để Nhật Tiến viết thêm “Thư thứ hai” mà ông có nhắc đến trong bài phỏng vấn.

Độc giả nào muốn đọc nguyên văn hai lá thư của nhà văn Nhật Tiến phúc đáp nhà thơ Hoàng Hưng và bản "Văn Việt quyết định mở mục VH Đô thị Miền Nam 1954-1975" có thể vào xem tại: "Có Hay Không Có Một Nền Văn Học Đô Thị Miền Nam???"
(Nhật Tiến,
http://nguoitinhhuvo.wordpress.com/2014/07/14/co-hay-khong-mot-nen-van-hoc-do-thi-mien-nam-nhat-tien

B- Người viết cần nói rõ, rằng nay Văn Việt đã hủy bỏ nhóm chữ "đô thị miền Nam 1954-1975" (trong "Văn học đô thị miền Nam 1954-1975") và thay vào bằng "Văn học Miền Nam". Dù vậy, sự thay đổi này không đơn giản (và tốt đẹp?) như vậy. Văn đoàn độc lập Việt Nam -Văn Việt đã thay nhóm chữ "Văn học đô thị miền Nam 1954-1975" bằng một tên mới nhưng KÈM thêm một định nghĩa xem ra không cần thiết lại có thể gây hiểu lầm:

-"Văn học miền Nam 1954-1975 (tức nền văn học trong lãnh thổ thuộc Cộng hoà Việt Nam)…"
(
http://vanviet.info/van-hoc-mien-nam/van-viet-mo-muc-van-hoc-mien-nam-1954-1975)

Trước hết, không có "Cộng hòa Việt Nam" mà chỉ có "Việt Nam Cộng hòa" (tức Miền Nam). Sau nữa, ba chữ "trong lãnh thổ" này hình như thừa đấy. Người viết thành thực hy vọng những nhà văn đầy thiện chí của Văn đoàn độc lập KHÔNG dùng cái chữ "lãnh thổ" ở cái nghĩa của Bùi Việt Thắng mà người viết đã có dịp trích dẫn trong bài: "Văn học đô thị là từ chỉ văn học ở lãnh thổ miền Nam dưới quyền kiểm soát của chính phủ Sài Gòn tồn tại trong các đô thị, chúng ta gọi là văn học đô thị của miền Nam trước đây…"
(Bùi Việt Thắng, sđd) ./. [NTC]

***************
Phụ lục 2-Phỏng vấn Nhà thơ Viên Linh

Nguyễn Tà Cúc: Là một nhà văn Miền Nam, không những thế còn nên được coi là một nhà văn duy nhất có kinh nghiệm và kiến thức bao quát cả về khía cạnh văn chương lẫn khía cạnh mỹ thuật trong trình bày in ấn –vì từng là Thư ký Tòa soạn, Chủ nhiệm&Chủ bút của những tạp chí văn học danh tiếng nhất của Miền Nam, đảm nhiệm luôn phần trình bày cho các tạp chí đó, lại sinh hoạt trong nhà in riêng–, anh nghĩ sao về mấy chữ "văn học đô thị miền Nam 1954-1975" này?

Viên Linh: Trước năm 1975, thời còn chiến tranh quốc cộng, cũng là thịnh thời của chiến tranh lạnh, cộng sản và những kẻ ăn theo tả phái gọi chính quyền miền Nam là chính quyền Sài Gòn, tên một thành phố, thay cho tên một quốc gia – vốn được hình thành theo một tiến trình dân chủ mẫu mực thế giới – là có thăm dò dân ý, để thành lập quốc hội lập hiến, soạn ra Hiến pháp, sau khi có Hiến pháp mới tiến tới bàu cử các cơ chế Quốc Gia, Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp, và tuyệt diệu thay, có Đệ tứ quyền: miền Nam có tới vài chục tờ nhật báo, cả trăm tờ tạp chí và các loại báo định kỳ khác, và được khoảng 100 quốc gia trên thế giới công nhận, trao đổi đại sứ. Nhưng cộng sản chỉ gọi đó là chính quyền của một thành phố: “chính quyền Sài Gòn.”

Viết văn làm báo từ những ngày dựng nước Cộng Hòa 1954, tôi đã may mắn được sống và được tiếp tay xây dựng nền Cộng Hòa ấy, mặc dầu sau này thăng trầm xen kẽ, nhưng khi nền hành chánh quân sự hay cơ quan quản trị của nó đổ vỡ, tinh thần của nó, tinh hoa của nó, văn hóa của nó, văn học nghệ thuật của nó, thần thức của nó nói chung, tồn tại, và vượt cả không gian vượt các quốc độ, nó tồn tại cho tới bây giờ trong lòng người Việt ở khắp nơi, và hiện diện tới cả lớp trẻ tuổi sinh ra sau chiến tranh, sau 1975 nữa.

Không những tồn tại, những thứ đó còn thăng hoa, đã khiến kẻ thù của nó phải tâm phục, là phục nhưng không nói ra, và khẩu phục, là phục tới lúc không nói ra thì không chịu nổi, cho nên “nhạc vàng” ngày xưa nay cũng là nhạc của những kẻ đỏ lòng, “văn chương đồi trụy Sài Gòn” dạo trước từ nhiều năm qua là “sách miền Nam, truyện miền Nam, thơ văn miền Nam.” Rõ ràng là “mảng văn học miền Nam,” trước thì người ta đi thuê về đọc lén, xem lén, cho đến bây giờ nó được in ấn lan tràn, có tên nhà xuất bản vào loại quan nha ở ngoài bìa, và dù chữ nghĩa thô sơ, vụng về, thế nào người ta cũng phải viết cho được một lời tựa in ở đầu sách, ké vào đó cho nó có văn hóa một tí.

Khi cộng sản gọi tên một nước là tên một thành phố, thì các thứ liên hệ của nó chỉ được phép dùng trong biện chứng của họ, trong ý nghĩa như văn học của toàn miền Nam trở thành văn học đô thị, như nhà văn Sài Gòn trở thành nhà văn thành phố. Họ còn hàm ý rằng chính quyền Sài Gòn là chỉ quanh quẩn trong đô thị đó thôi, còn ở bên ngoài, ở nông thôn, là do họ kiểm soát. Cộng sản vốn từng đánh lừa khắp nơi bằng những danh từ được dùng theo tính chiến lược giai đoạn, trong khi người dân bản xứ biết rõ họ kiểm soát nông thôn như thế nào, bằng cái gì.

Có ai tự hỏi nông thôn họ kiểm soát có bao nhiêu trường đại học, có bao nhiêu cơ quan ngôn luận, có bao nhiêu cơ chế phục vụ người dân như bệnh viện, thư viện, có bao nhiêu tiện ích công cộng phục vụ dân chúng? Không có gì hết, số không. Nói kiểm soát được nông thôn, trong đối nghĩa với đô thị, là ra cái điều họ có đa số, thực tế là láo khoét. Kiểm soát ấy chỉ là thủ tiêu và ám sát và tống tiền, và thu thuế không có biên nhận. Văn học đô thị mà sao các tạp chí chuyên biệt như Sáng Tạo, Văn, Nghệ Thuật, Khởi Hành, và các tạp chí ở giữa đô thị như Thời Nay, Phổ Thông, Phụ Nữ Diễn Đàn, … hàng tuần hay hàng tháng in ra cả chục ngàn số. Về tiểu thuyết, sách của Bình Nguyên Lộc, Linh Bảo, Lê Xuyên, Duyên Anh, Mai Thảo, Nguyễn Thị Thụy Vũ, … in tới bốn hay sáu ngàn số, các tác giả khác thông thường cũng in hai ba ngàn cuốn, trong khi sách báo hiện nay, dù in ở Hà Nội đi nữa, nhiều khi cũng chỉ in 500 cuốn? Không lẽ nước của chính quyền Sài Gòn và văn chương đô thị Sài Gòn lớn hơn nước Cộng hòa Xã hội Việt Nam? Trong khi dân số trước 1975 chỉ khoảng vài chục triệu, và dân số bây giờ là gần một trăm triệu?

Rành rành là trên thực tế không bao giờ có văn chương đô thị, cũng như không bao giờ có chính quyền Sài Gòn, đó chỉ là hai trong rất nhiều nhóm chữ, rất nhiều mệnh đề đẻ ra từ chiến tranh lạnh, tức là những chữ có tính giả trá, đánh lừa đám đông vốn có thứ hiệu ứng lười biếng của loài cừu, có thói quen bắt chước và ăn theo, thực tế chỉ có nền văn học dân tộc không đứt đoạn từ những Tản Đà, Ngô Tất Tố, Nguyễn Văn Vĩnh qua Tự Lực Văn Đoàn, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng và cũng truyền thống ấy vào miền Nam với Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân, Tam Lang, Nguyễn Vỹ, hợp với Đông Hồ, Tam Ích, Bình Nguyên Lộc, Tùng Long, hình thành Văn Học Miền Nam … và về mặt nhà nước, hợp pháp chỉ có chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Ở trong nước cũng thế, có một lớp những con tu hú đẻ nhờ, hay là được cho đẻ nhờ, được ở miễn phí hay được khen đẹp mã miễn phí – lại có bài đăng trên những tờ báo mới ra, báo giai đoạn, hay báo dùng lại tên của một hai tờ báo vốn là của sinh viên học sinh Miền Nam trước 75 — đóng vai người xưa bạn cũ cùng làng cùng ngõ: nhìn cho kỹ và nghĩ cho sâu, đang có một vận động hỏa mù khác, lần này là do những con tu hú kia, những nhà văn nhà thơ tài tử kia nhiếp vai đóng tuồng. Họ đang khôi phục lại sự phân ly, đang len lỏi để chia rẽ. Những gì đang xảy ra ở đây, bây giờ, vốn đã xảy ra thời 54, 75, trong giai đoạn giao thời và chuyển tiếp. Cộng sản chỉ có một mục đích, dù đổi màu như con tắc kè, là phải nắm được chính quyền, dù phải đổi tên chính quyền ấy, từ Lao động tới Xã hội chủ nghĩa, họ sắp phải bỏ mấy chữ Xã hội đi, họ sẽ có một tên khác, cuộc vận động thay màu đổi sắc đã bắt đầu.

Vốn có tập quán ghi nhận để tìm hiểu, tôi luôn luôn đọc cho mình nghe một câu thơ của tác giả đã sinh ra con hổ trong vườn bách thú, để quan sát, tự hỏi, và định vị trong cuộc sống, đặng khỏi sa vào cạm bẫy của con người: “Ta là ai giữa mùa thay đổi ấy?” Nếu không biết rõ mình, và nếu không biết cái gì đang thay đổi xung quanh, thì vào trong chuồng làm con cọp nhớ rừng là phải thôi. Hay từ đó suy ra, trong các giống chim, có loài chim tu hú tuy đẹp mã, văn vẻ, nhưng phải cái giống đi đẻ nhờ, vốn lười biếng đã không chịu xây tổ như các giống chim khác, không tự mình xây dựng mà cứ mượn danh, cuối cùng thì sẽ được gì nhỉ? Chắc chắn là các tổ trưởng sẽ ăn trứng của chúng, và đuổi chúng đi như đuổi hủi.

Nguyễn Tà Cúc: Cảm ơn anh đã cho ý kiến như một nhân chứng của Việt Nam Cộng Hòa và Văn học Miền Nam 1954-1975.



http://damau.org

Đỗ Phương Khanh
08-03-2014, 20:34
(tiếp theo)
black raccoon viết:

Thuật ngữ “nông thôn bao vây thành thị”, 農村包圍城市, du nhập từ sách về chiến tranh du kích của Mao Trạch Đông. Nó cùng với một loạt chủ trương khẩu hiệu khác cũng được VC đem vào VN trong khi họ thi hành cách mạng vô sản và giải phóng theo Maoist. Như: cải cách điền địa, đấu tố địa chủ, tòa án nhân dân, trí thức tiểu tư sản, đế quốc xâm lươc, ngụy quân ngụy quyền …

VC thủ đắc lý luận và hành động theo Tàu nhưng họ quên một chi tiết rất quan trọng nơi người Tàu: thủ đoạn lật ngược. Qua sông phá cầu, quá giang đoạn kiều.

Đó là lý do tại sao VN hiện nay biên giới với TQ bị bỏ ngõ, rừng đầu nguồn bị Tàu “khống chế”, núi rừng Tây Nguyên bị đội binh công nhân TQ đào xới, Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng v.v… Cha đẻ ra 農村包圍城市 ntbvtt, hơn ai hết nó hiểu giá trị của thế hiểm trở địa hình nước Nam!

農村包圍城市, nông thôn bao vi thành thị

http://baike.baidu.com/subview/139489/11113829.htm


Phan Đức viết:

Người CS.rất lọc lõi về trò chơi chữ nghĩa trong chính trị và có ý đồ phân biệt hay kỳ thị để xử lý theo kiểu “chuyên chính vô sản”,dù chủ nghĩa CS.hứa hẹn một xã hội công bằng,vô giai cấp; song trong thực tế họ còn chia ra nhiều thành phần công dân phức tạp hơn cả giai cấp (tư sản,tiểu tư sản và vô sản).

Do đó muốn khỏi bị lừa bịp bởi trò chơi chữ nghĩa này,người ta phải xét cặp phạm trù danh- thực có làm thành một thể thống nhất hay không hay là nói một đàng làm một ngả hoặc “trống đánh xuôi,kèn thổi ngược” của chế độ CS.!

Phải công nhận là người CS. lợi dụng tâm lý học để tuyên truyền một cách tinh vi, thậm chí đầy thủ đoạn. Nói rõ hơn là tuyên truyền bằng cách gây ác cảm hay thiện cảm, tùy theo đối tượng mà họ muốn trừ khử hay vận động (trí thức vận, tôn giáo vận, ngoại vận v.v.). Chỉ cần chụp mũ lên đầu bất cứ ai hay tổ chức nào chống lại họ một loạt khuôn mẫu từ ngữ “tiền chế” như phản động, Việt gian, ngụy quyền, ngụy quân, bán nước, bù nhìn, tay sai v.v.là họ đã có thể lừa được những người ngây thơ, cả tin và thiếu hiểu biết về ý đồ chính trị của CS.khiến người ta dám hy sinh thân mình và cả thân nhân, đồng bào mình (chôn sống trong Tết Mậu Thân) để… lập công cho “cách mạng”!

Trái lại,VNCH.tuyên truyền thường “hiền lành” hơn. Chỉ miả mai hay châm biếm nhẹ nhàng về hình hài, thể chất bên ngoài (đại loại như 5 tên VC. đu cành đu đủ không gãy chẳng hạn). Cách tuyên truyền đó không tác dụng mạnh mẽ gì vào tâm trí con người như tuyên truyền của cộng sản bằng thủ đoạn tấn công vào nhân cách, vào tính cách chính trị của đối phương(bù nhìn, tay sai Mỹ ngụy v.v.) nhằm hạ thấp, nhục mạ…cho mục đích tối hậu
là tận diệt kẻ thù (cứu cánh biện minh cho phương tiện)!

nguyễn tà cúc viết:

Tôi xin cảm ơn ông/bà black raccoon không những đã bỏ thì giờ đọc mà còn lại nêu lên vấn đề hết sức quan trọng ấy rồi cập nhật hóa nó với hiểm họa bây giờ. Người cộng sản Việt Nam rập khuôn khi thì Trung cộng khi thì Nga xô, nhưng luôn luôn phá hủy nhân tâm và phân ly thành thị với thôn quê bằng bạo lực.

Chính sách bao vây thành thị, như black raccoon đã đề cập đến, được Lê Duẫn phân tích rất kỹ trong cuộc tiến chiếm Miền Nam:

“Ở Miền Nam Việt nam, vùng nông thôn rộng lớn với nền kinh tế tự nhiên không lệ thuộc vào đô thị[...]Vì thế khi cách mạng chín muồi, nông thôn là nơi yếu nhất, là nơi mà ngụy quyền lung lay và khủng hoảng sớm nhất, do đó nhân dân có khả năng tiến hành khởi nghĩa từng phần, phá bỏ từng mảng hệ thống cai trị của địch[...]Từ đó đến nay, kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị là hình thức bạo lực cơ bản của của cách mạng miền Nam…”
(Lê Duẫn, “Cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng cách mạng tháng mười”, Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam- Tác phẩm chọn lọc Tập 1, trang 696-697, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1976)

Thế cho nên, khi những trí thức Miền Nam như Lý Chánh Trung hay nhóm nhà văn như Trình Bầy cổ võ cho một Miền Nam hòa bình thì họ không hiểu rằng người cộng sản sẽ sử dụng bạo lực để giải quyết cuộc chiến. Chỉ trước đoạn dẫn trên có 2 trang, Lê Duẫn đã lập lại một cách cả quyết:

“nhân dân Miền Nam không có con đường nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng …”(trang 694, sđd).

Bởi thế, tôi rất mừng khi nhà văn Nhật Tiến và nhà thơ Viên Linh nhận trả lời phỏng vấn vì dù sao chăng nữa, vì không xuất thân từ Văn học Miền Nam, tôi không có tư cách để phát biểu như các anh ấy. Sau nữa, nay thì chúng ta có thể đã biết rằng người cộng sản –tôi đang nói tới người cộng sản, tôi không nói tới các thế hệ người Việt sinh trưởng và được giáo dục trong chế độ này– đã có chủ ý viết lịch sử và văn sử theo ý họ. Nhưng họ sẽ rất khó thể thực hiện được toan tính ấy ngày nào những nhà văn thuộc Văn học Miền Nam còn sống và còn tiếp tục lên tiếng như các nhân chứng.

damau online