PDA

View Full Version : Một chút tình riêng gửi người cựu thiếu sinh quân



Nhu Thuong
05-16-2013, 10:12
MỘT CHÚT TÌNH RIÊNG GỬI NGƯỜI CỰU THIẾU SINH QUÂN


Đào Vũ Anh Hùng


Đại hội kỳ thứ XII của Tổng hội Thiếu Sinh Quân được tổ chức tại thành phố Des Moines, tiểu bang Iowa vào ngày 2 tháng 7 năm 2000 đã quy tụ nhiều cựu Thiếu sinh quân khắp nơi, thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, thuộc quân, binh chủng, ngành, nghề khác nhau từ mọi tiểu bang tại Hoa kỳ, cả từ Canada và Úc về tham dự.

Tôi là người ngoài tập thể Thiếu Sinh Quân đến với Thiếu Sinh Quân như một nguời khách được mời, cùng với hai người khách được mời khác là Liên Bích, nữ xướng ngôn viên đài phát thanh VBN đến từ Dallas, Texas, với phu quân Đào Chí Nhân tháp tùng. Đây là danh dự và cảm kích đối với chúng tôi, những thân hữu của anh em cựu Thiếu Sinh Quân, được Thiếu Sinh Quân dành cho cảm tình đặc biệt và ân cần mời đến.

Liên Bích được mời đến để đọc bài viết về cuộc chiến đấu bi hùng của hơn 700 thiếu sinh thuộc trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu vào những giờ phút hấp hối của miền Nam Việt Nam vào ngày 30-4-75. Giọng xướng ngôn điêu luyện và truyền cảm của Liên Bích đã một lần gây xúc động toàn thể cử tọa trong buổi lễ kỷ niệm ngày Quân lực 19-6, 1997 tại Dallas. Nhiều người hiện diện đã khóc khi nghe Liên Bích nghẹn ngào đọc “Bài Quốc Ca Hát Trên Đất Nước Ngày Cuối Cùng” hay “Cuộc Chiến Đấu Bi Hùng Của Thiếu Sinh Quân”, thiên anh hùng ca bất hủ do những người lính tuổi còn măng sữa đại diện quân lực VNCH tạo nên trong giờ phút hấp hối của miền Nam. Họ hiên ngang kháng cự, đương đầu với hai tiểu đoàn bộ đội chính quy cộng sản do tên tướng Song Hào chỉ huy, tấn công cứ điểm phòng ngự cuối cùng của tiểu khu Vũng Tàu. Cứ điểm đó là trường Thiếu Sinh Quân và Thiếu Sinh Quân quyết tâm tử thủ.

Tôi được mời đến để chia xẻ với anh em, nói cho anh em hiểu lý do tại sao, động lực nào thúc đẩy mà tôi đã viết lên bài viết làm mủi lòng cả những người chai đá? Tôi đến để giải toả thắc mắc và để nói lên mối tâm cảm sâu xa, bầy tỏ tâm tình và cảm nghĩ của một người quân nhân cầm bút, tuy không được danh diện xuất thân từ Thiếu Sinh Quân nhưng với Thiếu Sinh Quân, vốn từng mang nặng cảm tình và lòng ngưỡng phục. Chính cảm tình và lòng ngưỡng phục sâu xa đó đã khiến tôi rúng động, đổ rơi nước mắt khi đọc một đoạn tin ngắn ngủi vài ba năm trước, viết về cuộc chiến đấu bi hùng của hơn 700 Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu trong ngày cuối cùng, trong những giờ phút cuối cùng miền Nam thân yêu của chúng ta bị âm mưu bức tử.
Đoạn tin rất ngắn, chi tiết sơ sài nhưng đã giúp tôi hình dung ra được toàn vẹn bức tranh hoành tráng của cuộc chiến đấu dũng cảm, gan dạ, tạo nên kỳ tích mà tôi nghĩ, những hy sinh đó phải được nắn nót ghi trong quân sử và nắn nót ghi trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam ta bất khuất. Tôi đọc bản tin, đắm chìm trong trạng thái bần thần hồi niệm, lòng tức tủi, đau quặn niềm thương sót những thiếu niên anh dũng, tóc còn xanh, tâm hồn non trẻ, nhưng đã làm chuyện phi thường, tạo nên chiến công kỳ vỹ trong giây phút cuối tang thương máu lệ. Những người Thiếu Sinh Quân nhỏ bé nhưng sự hy sinh thật vĩ đại, liều thân ôm giữ đến cùng tấm bia danh dự của quân lực, bảo vệ giá trị thiêng liêng của lá quốc kỳ và chiến đấu đến sức tàn lực kiệt. Nhiều em ngã xuống cùng vận số hẩm hiu đất nước. Họ chết, cho chúng ta được sống còn…

Tôi bùi ngùi xúc cảm trước tấm gương bi tráng đó. Và đưa trí tưởng bay về miền đất quê hương có tên là Vũng Tàu, vào buổi sáng ngày 30-4-75, nơi xảy ra cảnh “châu chấu đá xe”, xe nghiêng ngả! Tôi thấy diễn ra toàn cảnh trận thư hùng giữa những người chiến sĩ tí hon gan dạ và bầy lang sói. Những người Thiếu Sinh Quân đã chiến đấu hiên ngang, táo bạo và vô cùng ngoạn mục. Họ vững vàng tay súng, hớn hở xung phong và ngã xuống tươi cười. Như thể các em đang tham dự trò chơi Đinh Bộ Lĩnh, lấy cờ lau tập trận. Hay như hình ảnh ngày xưa đoàn quân quyết tử đánh thắng giặc Nguyên dưới ngọn cờ “Phá Cường Địch, Báo Hoàng Ân” của vị thiếu niên võ tướng anh hùng Trần Quốc Toản. Lòng tôi ngập những thương yêu và cảm phục… Tôi đã cầm lấy bút, say sưa hứng khởi vẽ lại bức tranh lẫm liệt và bi thảm đó. Tôi viết mà lòng trĩu nặng niềm thương tủi, nước mắt chảy ra dàn dụa.

Ngày xưa còn bé, tôi nhìn người Thiếu Sinh Quân cũng bé như tôi, như một hình tượng hết sức xa xôi nhưng cũng thật là gần gũi. Xa xôi, vì quả tình tôi không biết họ đến từ đâu - những chú bé đi ngoài đường phố từng nhóm nhỏ với đồng phục rộng thùng thình, mắt e dè bỡ ngỡ trước sinh hoạt phố phường… Hồi đó tôi thèm muốn được gia nhập Thiếu Sinh Quân nhưng không hiểu ai đã nhồi nhét vào đầu óc tôi ý nghĩ sai lầm, rằng muốn vào Thiếu Sinh Quân phải là con tử sĩ, và rằng chỉ có con tử sĩ mới được chính phủ nuôi ăn học để theo binh nghiệp. Gần gũi, vì tôi là Hướng Đạo, nhìn Thiếu Sinh Quân như nhìn một đoàn sinh Hướng Đạo - hơn cả Hướng Đạo - vì họ được huấn luyện quân sự. Tôi yêu những người Thiếu Sinh Quân mặc đồng phục từ ý nghĩ rất tự nhiên: Họ cũng như Hướng Đạo, sinh hoạt trong một đoàn thể chọn lọc và được tinh lọc, có tinh thần kỷ luật và ý thức đoàn thể, ý thức trách nhiệm, tình cảm xã hội cao - phải là những con người đàng hoàng, khí tiết, can đảm, yêu nước chân thành, sống gương mẫu và biết trọng danh dự…

Bài viết đó, tôi tưởng chỉ có tôi bi lụy, mỗi lần đọc lại, là thêm một lần đỏ hoe nước mắt vì u uất và thương cảm. Nhưng sau này tôi biết có rất nhiều người chia xẻ cùng tôi xúc cảm và niềm bi phẫn đó. Câu chuyện cuộc chiến đấu bi hùng của Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu đã được nhiều báo chí Việt ngữ đăng lại từ đặc san Lý Tưởng của Tổng hội Không Lực, được đưa lên Internet, được phát thanh ở nhiều nơi, được mọi người nhắc nhở... Tôi thấy vui vì việc làm của mình được biết đến và tâm cảm. Tôi muốn không những tất cả người Việt quốc gia chống cộng trên thế giới phải biết đến, mà cả nhân loại phải biết đến cái chiến công oanh liệt đó, biết đến sự hy sinh cao vợi đó của Thiếu Sinh Quân Việt Nam mà cúi đầu ngưỡng phục.

Tôi đã nhận lời và đến tham dự đại hội. Đã gặp những người cựu Thiếu Sinh Quân để có thêm một lần xúc động. Chúng tôi đến phi trường Des Moines nửa đêm ngày thứ Năm 29-6, được tiếp đón ân cần và tiếp đãi ân cần như bạn cũ, như anh em trong một gia đình. Tôi đã trải qua những phút giây choáng ngợp niềm vui của bất ngờ gặp lại anh em bằng hữu. Tôi chờ đợi và mong gặp lại những Đỗ Bưởi, Phạm Bá Mạo, Phạm Công Cẩn nhưng họ bận không về. Đổi lại, tôi có được cơ hội trùng phùng với những người bạn, qua mấy chục năm dâu bể, không bao giờ tôi ngờ có ngày hôm nay được gặp lại nhau và gặp tại đây, nơi thành phố nhỏ bé này. Như bất ngờ gặp lại Lâm Ngọc Chiêu - Lôi Hổ, Lai Đình Hợi - Biệt Kích 81, hai người cựu sĩ quan thuộc hai liên đoàn đặc nhiệm của những năm 69, 70, 71 tôi bốc đi nhảy toán từ B15, Kontum hay các trại biên phòng khi bay cho MAGSOC, thi hành những phi vụ đặc biệt, thả và đón biệt kích xâm nhập mật khu VC dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh hay vùng tam biên, vùng cao nguyên Bolovens ở hạ Lào… Gặp Chu Mạnh Bích, Không Quân, trước tôi một khoá đến từ Minnesota, sau 35 năm chia biệt. Gặp Hoàng Thanh Tùng, con trai bác sĩ Hoàng Văn Đức tức nhà văn Hoàng Vũ Đức Vân, chỉ huy trưởng đầu tiên ngành Quân Y của quân đội quốc gia VN. Tùng là em cố Đại úy Nguyễn Cao Hùng, cùng khoá với tôi, rất thân, phi công khu trục đã trúng hoả tiễn SA-7 rơi nổ đời mình tại An Lộc trong mùa hè đỏ lửa 72 mà tôi chứng kiến rõ ràng cái sát na khủng khiếp của cuộc hoá thân trên một toạ độ ở Suối Tàu Ô khi bay cùng cao độ… Đặc biệt, là cuộc gặp gỡ bất ngờ Thiếu tướng Lý Tòng Bá mà tôi đã có với ông một vài kỷ niệm nhớ đời. Thiếu tướng Lý Tòng Bá, cựu Thiếu sinh quân, thủ khoa khoá 6 Võ Bị, người hùng của mặt trận Kontum năm 72 với một sư đoàn bộ binh - Sư đoàn 23 - đã gây thảm bại cho hai sư đoàn Việt cộng của tên tướng Hoàng Minh Thảo, khiến sau này khi mất miền Nam, bị cầm tù và bị đem ra Bắc, Hoàng Minh Thảo và một số tướng cộng sản đã đến tận trại tù gặp tướng Bá hỏi cho ra lẽ tại sao trận thư hùng nào ông cũng thắng cộng sản, dù quân số ít hơn, dù yếu kém hơn hoả lực?…

Và còn nhiều nữa, như gặp lại Trung tá Hoà, TĐT Tiểu đoàn 1 TQLC, cựu TSQ. Gặp Trung tá Cang, TQLC và Trung tá Bảo, quận trưởng quận Dakto, Benhet. Tôi cảm động. Rất nhiều người mặc quân phục và tôi cũng mặc quân phục theo đề nghị ghi trên thiệp mời của ban tổ chức. Đa số là quân phục tác chiến của TQLC mà nhìn ngắm họ, tôi có cảm tưởng hôm nay họ vừa thoát xác, “trẻ” ra ít nhất 25 tuổi, tính từ buổi tan hoang đất nước!… Tất cả đều còn nguyên vẹn phong độ và dáng nét hiên ngang của 25 năm, 30 năm về trước. Những người đã tạo nên sức mạnh của quân lực VNCH, tạo nên bao chiến thắng lẫy lừng ở những mặt trận làm kinh mang cộng sản và rúng động dư luận thế giới. Như chiến thắng Mậu Thân ở Huế, như cuộc tái chiếm cổ thành Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa 1972… Tôi nhìn ngắm họ mà bâng khuâng xúc cảm. Chúng tôi đã có một thời sống bên nhau, hay chiến đấu bên nhau, có cùng nhau những giây phút tang thương lẫm liệt, những ngày tháng lầm than nhưng cực cùng vinh hiển trong cuộc chiến dài thảm khổ vừa qua. Những người trai trẻ khoác trên người đủ màu áo lính, nhưng chung mang một lý tưởng, đã lầm lì chịu đựng và dũng cảm xông pha, đi những bước gian nan trên con đường quá khổ và quá nhọc nhằn - con đường đem lại vinh quang cho dân tộc mà thế hệ chúng ta đi hoài không tới đích...
Tôi đến Des Moines hai ngày trước hôm họp đại hội. Ở nhà cựu TSQ Nguyễn Minh Châu, không một đêm nào chợp mắt trước 2, 3 giờ sáng. Chúng tôi thức với nhau, làm việc, vui đùa, ăn uống và trò chuyện, thân tình. Trong hai ngày đó và trong ngày đại hội, tôi đã chứng kiến và xiết bao cảm động trước cái tình lâm lụy của người cựu Thiếu Sinh Quân. Tôi thấu hiểu, cảm thông, chia xẻ với họ, như chính mình mang trọn vẹn tâm tình và cảm xúc của một cánh chim Thiếu Sinh Quân lưu lạc nghe tiếng gọi đàn bay về đoàn tụ. Những cánh chim non của ngày nào mái tóc thanh ti đã nhuốm màu sương tuyết, ríu rít bên nhau, hoan lạc bầy tỏ tình thân ái. Họ như trẻ thơ, ồn ào, vui tếu, cười đùa, nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ riêng. Ngôn ngữ Thiếu Sinh Quân! Anh và em. Thầy và trò. Ngày xưa và bây giờ. Quãng đứt thời gian được nối cho liền lại. Những mảnh vụn kỷ niệm thương yêu đằm thắm tự xa xưa cất giữ trong sâu thẳm buồng tim hôi hổi mỗi người, hôm nay mới được dịp hân hoan trải bầy ra, tíu tít cùng nhau chắp vá lại để cùng nhau ngậm ngùi chiêu niệm và bồi hồi ôn nhớ.

Quá khứ như mặt hồ nước trong phẳng lặng bỗng rộn lên những lượng sóng xôn xao. Họ kéo nhau về tụ hội, những người trai trẻ của ngày nào, hôm nay làm cuộc hành hương, như cuộc trở về của những chinh nhân, kiếm cung gác bỏ, bụi phong trần rũ sạch, nhung y xếp lại, mở rộng vòng tay ôm lấy bạn bè, tủi tủi mừng mừng trong phút giây hạnh ngộ. Họ ôm ghì lấy nhau, những bàn tay xiết chặt, rưng rưng ánh mắt nhìn cho tường tận nét phong trần tủi cực của nhau, hỏi han nhau nếm trải những gì trong những năm trường gai lửa? Điểm danh nhau xem ai còn ai mất? Ai ở lại? Ai đã ra đi? Ai từng bị tù đầy?… Họ có với nhau biết bao điều để nói và hôm nay gặp lại, đã nói ra cho hả.
Có câu “Không ai tắm hai lần trên cùng một giòng sông” - là nói về cảm xúc của con người ở một thời gian nào đó, không thể mang cùng cảm xúc như cảm xúc đã qua hay của lần sẽ tới, trong cùng chốn không gian. Nhưng với những người cựu Thiếu Sinh Quân, tôi thấy rõ ràng niềm vui toả sáng long lanh trong ánh mắt. Họ sống với nhau bằng hình ảnh và những âm thanh ngày cũ, thoả thuê tắm mát trong giòng sông dĩ vãng đầy nhớ thương tiếc tưởng. Buổi trưa 1-7, ngày picnic sinh hoạt ngoài trời, dưới những tàng cây của một công viên thành phố chan hoà ánh nắng, từng nhóm, từng bầy, những mối giây thân ái được quấn thắt cho chặt lại. Những cánh bèo trôi dạt mừng rỡ gặp lại nhau nơi cuối nguồn con nước, cuống quít, hớn hở bám vào nhau, rộn ràng, quyến luyến. Bạn bè vẫn là bạn bè cũ. Chuyện vẫn là những chuyện xưa. Có chuyện bắt đầu từ 30, 40 năm về trước, hôm nay vẫn nồng nàn chưa dứt. Tóc xanh tơ đã nhiều sợi bạc, dung nhan đã hoàng hôn, nhưng tâm tình và cảm xúc của họ vẫn còn nguyên vẹn tâm tình và cảm xúc thời niên tráng.

Trong đêm liên hoan mừng đại hội thành công và mừng họ đã bầu ra được một tân Tổng Hội Trưởng, tôi còn được nhìn thấy hình ảnh đẹp đẽ của thế hệ Thiếu Sinh Quân mới, hãnh diện trong bộ đồng phục ngày xưa của cha chú, nghiêm chỉnh đứng thành đội ngũ dưới cờ, đồng ca bài Thiếu Sinh Quân hành khúc. Ôi quả thực lòng tôi dịu dàng thương mến hình ảnh trong sáng đó. Tùng hỏi tôi nghĩ thế nào về thế hệ con em ở mai sau, “Em sợ rồi ra khi anh em mình không còn nữa…”. Tôi đã trấn an Tùng, nói tất nhiên cũng có phần mai một. Nhưng hãy tin đi, không thể mất hoàn toàn tinh chất ấy được đâu. Bởi vì ở thế hệ nào chăng nữa, cho dù cái cộng đồng này có tồi tệ thế nào chăng nữa, chúng ta vẫn còn những tâm hồn khao khát thương yêu đất nước, không quên bản thể, không chối bỏ cội nguồn, vẫn muốn gìn vàng giữ ngọc cho hiến văn, tập tục và truyền thống Việt Nam. Nhất là con cháu những người lính VNCH. Bổn phận chúng ta là phải nói cho chúng nghe, phải nhắc cho chúng nhớ, phải kể cho chúng biết, phải tả vẽ cho chúng hiểu. Rằng Việt Nam mới là quê hương đích thực của chúng. Và rằng tổ tiên ta đã từng đem xương máu, mồ hôi và nước mắt tô bồi nên mảnh giang sơn cẩm tú ấy, đã hàng hàng lớp lớp hy sinh giữ gìn cho đất nước vẹn toàn trước ách ngoại xâm và trong cận đại, cha chú chúng đã hào hùng chiến đấu thế nào, đã hy sinh cao vợi thế nào để bảo vệ nền tự do dân chủ của miền Nam, nhưng cuối cùng bị bội phản phải bỏ nước ra đi nhưng lòng hoài hương trĩu nặng, vẫn ngày đêm mong ngóng vinh quang có một ngày về nhìn lại quê cha đất tổ…

Những thiếu niên con cháu đó là kế tục, là hiện thân của tinh thần và truyền thống Thiếu Sinh Quân anh dũng đã tạo nên huyền sử chiến đấu Vũng Tàu ngày 30-4-75, khiến địa danh này bất diệt, khiến ba chữ “Thiếu Sinh Quân” bất diệt.

Đào Vũ Anh Hùng
(Ngày 4-7- 2000)


SOURCE:
http://ngothelinh.tripod.com/ThieuSinhQuan.html


TRƯỜNG THIẾU SINH QUÂN trước năm 1975:

http://i42.tinypic.com/5vvfqb.jpg



http://i41.tinypic.com/34gn7g5.jpg


Source:
http://www.kbc4437.com/truong_01.htm




*****


PHAN NHẬT NAM DỰA LƯNG NỖI CHẾT


Đào Vũ Anh Hùng


LTS : Tổ Quốc đăng tải bài "Phan Nhật Nam - Dựa Lưng Nỗi Chết" của tác giả Đào Vũ Anh Hùng, tuy không còn tính cách thời sự nhưng chúng tôi nhận thấy mẫu chân dung nhà văn không chịu khuất phục trước mọi thủ đoạn trả thù tàn độc của Cộng sản, mang lòng cảm phục người chiến sĩ cầm bút tiêu biểu của Miền Nam. Xin mời bạn đọc đón nhận để biết đến thân phận những người cầm bút thất thế của Miền Nam và đánh giá chế độ CSVN "nhân đạo" như thế nào ?


Lần cuối cùng, tôi gặp Phan Nhật Nam, vào một sáng Chủ nhật, đâu khoảng hơn tháng trước ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản. Nam đang đứng nói chuyện với nhà văn Vũ Bằng và nhà văn Mặc Thu trên lề đường trước nhà ông Chu Tử và vợ chồng Đằng Giao, 104 đường Công Lý. Thấy Nam trẻ trung tươi sáng trong bộ quân phục Nhảy dù vải kaki vàng thẳng cứng nếp hồ với đầy đủ lon lá, huy chương và sợi giây Bảo quốc rực rỡ, tôi thoáng ngạc nhiên vì lần gặp gỡ trước Nam đã nói với tôi rằng vừa giải ngũ. Tôi hỏi đùa:

― Bạn tôi quân cách rềnh ràng đi lãnh thưởng ?

Tôi có ý trêu Nam về số tiền một triệu ông Chu Tử đề nghị báo Sóng Thần tặng Nam về tác phẩm " Tù Binh Và Hoà Bình " để bỉ thử giải Văn học Nghệ thuật bần tiện của Thiệu. Nam cười lớn:

― Cái giải thưởng của bố già cậu sài mẹ nó hết rồi, có cụ Vũ Bằng biết đấy !

Rồi Nam tự giải thích khi thấy tôi hóm hỉnh nhìn Nam với bộ quân phục:

― Cậu Nam giải ngũ nhưng cậu Nam vẫn là lính Nhảy dù hợp lệ ! Nhưng mà giải ngũ rồi chán quá mi ơi. Buồn cóc biết làm gì và thèm mặc lại quân phục?

Xong Nam dịu giọng nói như than thở:

― Có lẽ tao lại phải làm đơn xin tái ngũ. Giải ngũ mà tao có cảm tưởng xấu hổ như một thằng đào ngũ !

Tôi có chuyện cần, vội gặp ông Chu Tử nên không nán lại góp chuyện với ba người và tìm hiểu chuyện Nam giải ngũ là đùa hay thật. Tôi chào và leo lên gác. Lúc trở xuống thì Nam đã không còn đấy nữa, và đó là lần cuối cùng tôi gặp Phan Nhật Nam, cho đến ngày di tản và cho đến bây giờ là sáu năm chia biệt.

Gặp Nguyên Vũ ở Fort Chaffee, gặp Lê Văn Mễ và một số bạn trong và ngoài binh chủng Nhẩy dù thân biết Phan Nhật Nam, tôi đều hỏi thăm và rõ chắc Nam cùng vợ con kẹt lại. Tôi rất buồn và lo lắng cho Nam cùng các bạn văn không di tản được. Nhưng tôi nghĩ nhớ và lo lắng cho số phận Phan Nhật Nam nhiều nhất. Là bởi, lần ra Hà Nội quan sát vụ trao trả tù binh, Nam đã ngông nghênh ôm theo cả một lô sách " Mùa Hè Đỏ Lửa " ký tặng các văn nghệ sĩ miền Bắc. Đó là tác phẩm để đời của nhà văn chiến trường số Một của miền Nam viết về cuộc chiến khốc liệt mùa hè 72, đầy rẫy lời thống mạ chủ nghĩa và tập đoàn lãnh đạo miền Bắc, phơi bầy thực chất phi lý bi thảm của cuộc nội chiến và toàn vẹn bộ mặt bất lương đốn mạt của " anh Hồ cộng sản " - thứ " nhân tài chết tiệt của dân tộc " - mà Nam đem đến tận nơi, dí vào mắt chúng. Tôi thật phục Nam. Tôi vẫn muốn có dịp hỏi thăm Nam về chuyến theo phái đoàn Ủy ban Liên hiệp Quân sự ra Hà nội và khi trở về, Nam đã viết cuốn " Tù Binh và Hoà Bình mà tôi chưa được đọc ".

Đối với tôi, Nam đã chiếm giữ một cảm tình đặc biệt. Tôi yêu cái văn chương bốc lửa của Nam, thích cái con người tàng tàng ngạo nghễ của Nam. Kỷ niệm tôi có với Phan Nhật Nam không nhiều nhưng đủ để tôi và Nam coi nhau như bạn thiết. Tôi đọc tác phẩm đầu tay của Nam, cuốn " Dấu Binh Lửa " nhân một kỳ nghỉ dưỡng sức trên Đà Lạt và đã say mê cuốn hút, cảm phục văn tài, vô cùng thú vị với những dòng thể hiện sống động mạnh mẽ, hiên ngang, đậm sũng tình người, chứa chan lòng yêu quê hương đất nước ... Phan Nhật Nam, ngôi sao mới hiện nhưng đã chói lọi trong giới quân nhân cầm bút. Nam hiện thực đời mình, phổ diễn tâm tình, cảm nghĩ của một người vững chắc lập trường quốc gia nhân bản, hiện thực tấn thảm kịch đầy bi phẫn đau thương của cả một thế hệ trong đó có Nam vừa thủ diễn vừa là chứng giả. Nam đã nói lên được tiếng lòng thầm kín cùng khát vọng chung của những người cầm súng. Nam là gạch nối giữa những người lính chiến và dân thành thị. Nhờ có tác phẩm của Phan Nhật Nam, dân thành phố ngụp lặn trong bình yên hưởng thụ mới giật mình biết đến và biết rõ mức độ thảm khốc của chiến tranh cùng sự hy sinh quá lớn của người lính. Điều rõ rệt nhất là Nam đã nói lên được cho nhân loại hiểu về cái chính nghĩa của cuộc đấu tranh để tự tồn. Rằng những người lính Việt Nam Cộng Hoà cầm súng và chiến đấu không phải vì bản năng hiếu sát hay yêu thích chiến tranh, mà là chiến đấu để tồn tại. Cho chủ nghĩa Quốc gia tồn tại và nền Tự do Dân chủ của miền Nam tồn tại.

Trong các thiên bút ký chiến trường, Phan Nhật Nam đã cực tả được độ cao cùng tột của chiến tranh tàn khốc, hiện thực được cả một trời đất mênh mang thống hận trong lòng người dân Việt trước cảnh tương tàn đẫm máu, đã vẽ ra một thiện thân sừng sững của người lính Nhảy dù chiến đấu hào hùng và chết rất hào hùng. Những đời trai trẻ quên bỏ hạnh phúc, tình yêu, tương lai, sự nghiệp cùng những vui riêng để bước vào chốn cùng hung cực hiểm, đầy rẫy gian lao khổ nhọc và bị vô ơn bạc đãi nhưng vẫn lầm lì chịu đựng và dũng cảm xông pha trận mạc, trực diện kẻ thù, đổ mồ hôi, xương máu lao thẳng vào đạn lửa, phóng mình vào nỗi chết cho giải đất miền Nam được tồn tại và người dân miền Nam được sống còn.

Phan Nhật Nam là một nhà văn có chân tài. Ngôn ngữ xử dụng trong văn chương Phan Nhật Nam là thứ ngôn ngữ hừng hực như lửa, mạnh mẽ như gió bão, vững chắc như thành đồng, tha thiết, nồng nàn, chứa chan nhân tính ...

Tôi gặp Nam lần đầu do Thế Phong đưa lại chơi nhà Nam ở đường Trần Nhật Duật, Tân Định. Nhưng biết nhiều về Nam thì qua bạn cùng khoá với Nam là Võ Ý. Tôi nhớ lần đó Nam nói khoái tôi vì bài bút ký " Dakseang Gối Mỏi Lưng Đồi " tôi viết trên tuần báo Đời và ký tặng tôi cuốn " Mùa Hè Đỏ Lửa " với vỏn vẹn mấy chữ Tặng ông, bạn tôi làm Thế Phong cười ngất :

― Nó là nhà văn đang lên, sách bán có tiền nên hà tiện chữ nghĩa cho bạn bè !

Sau này tôi mới nói cho Nam biết cái thằng bay chiếc C&C cho tướng Hậu nửa đêm vào Tân Khai trong trận bão Mannie, giữa mưa đạn phòng không Việt cộng mà Nam nằm dưới đất nhìn thấy khi theo chiến đoàn trung tá Cần vào giải vây An Lộc rồi viết trong " Mùa Hè Đỏ Lửa " chính là tôi, Nam có vẻ thống khoái vì sự ngẫu nhiên ấy, cười khà khà và phán một câu:

― Thấy chiếc máy bay, tao thương quá. Những thằng Không quân chân hổng giữa trời, chết mà không biết thằng khốn nạn nào " chơi " mình thì " lỗ " quá! Thực tình tao " rét " mày ạ, chết dưới đất vững hơn ... Ai ngờ lại là mày bay cho ông Hậu ! Hà hà ! ... Mày rơi đêm đó là tao lại có tí đề tài " viết cho một người nằm xuống " !

Trong những ngày bôn ba chiến trận, thỉnh thoảng tôi có gặp Nam vác máy hình theo quân Dù đi làm phóng sự. Nhưng thường là những lúc tôi về Saigon cùng Nam và một vài bạn văn nghệ ghé La Pagode bù khú. Đó là những lần tôi có dịp thán phục khoa đấu láo của Nam. Cái giọng oang oang nửa Huế, nửa Quảng Nam, pha tí Bắc kỳ, một khi mở máy là nói liên miên đủ thứ đề tài ... Có thể nói khoa tán phét của Nam vô địch ! Nam có khả năng nói thao thao hàng giờ không ngưng nghỉ và thật lôi cuốn, có duyên, ba hoa châm biếm bất cần thiên hạ.

Tôi nhớ nhất một lần đang đấu vung vít với chúng tôi, Nam bất chợt để ý thấy một cô gái ngồi uống nước một mình ở bàn bên cạnh. Cô gái mặc đồ đầm, có nét đẹp kiêu kỳ sang cả của một thứ kiều nữ con nhà giàu học trường đầm, châm hút điếu Salem. Thế là Nam kêu lên:

Tại hạ xin có ý kiến: Người đẹp mà hút Salem là không đúng sách vở !

Thế là Nam bỏ mặc câu chuyện dở dang với chúng tôi, kéo ghế qua bàn cô gái. Tôi không nhớ Nam hút thuốc gì nhưng cũng là một thứ thuốc lá đầu lọc và Nam bô bô quảng cáo cho hiệu thuốc của mình với những lời dẫn chứng theo sách vở, theo kinh nghiệm, theo thống kê, theo lời " Khổng Tử xổm tọa chi viết " , theo lời khuyên của bác sĩ này, nhà sản xuất nọ và Nam đem luôn chính trị, kinh tế, quân sự và cả truyện chưởng Kim Dung vào bài hát nói! Nam nói một cách trơn tru hữu lý. Trong cái hoạt kê quấy nhộn ấy, tôi thấy khẩu tài của Nam vượt xa miệng lưỡi dẻo kẹo của những anh giang hồ bán thuốc Sơn Đông. Những tay mãi võ láu cá vặt đó, hay những lời tuyên truyền của mấy cậu mợ cộng sản nhà quê không thể duyên dáng bay bướm trí thức như Nam được. Cô gái cuối cùng phải bỏ nét mặt lạnh lùng kênh kiệu, bật cười phì và nhận điếu thuốc Nam mời. Bài tán láo của Nam dài gần nửa tiếng đồng hồ và hai tay ăn tục nói phét có hạng trong mấy chúng tôi hôm đó là Thế Phong và Dương Hùng Cường cũng phải chào thua Nam.

Đó là một vài trong những kỷ niệm tôi có với Phan Nhật Nam. Tôi yêu và phục Nam không chỉ có văn tài và và khoa đấu hót. Nam thông minh, hiếu động, tính tình thẳng trực, ngang tàng khí phách, đôi khi hành động như một thứ " cao bồi văn nghệ " nhưng không nhố nhăng lố bịch. Cái ngông nghênh tự phụ của Nam, đối với tôi không có gì quá đáng. Tâm hồn Nam sâu sắc, nhiều tình cảm và rất tốt với bạn bè. Nam bị kẹt lại vì ngày 30-4 dắt vợ con vào nhà tướng Kỳ nhưng không thấy ông tướng râu kẽm, bèn chạy qua DAO. Trước cảnh chen lấn cùng ám ảnh một đảo Guam không hơn gì các trại đón dân tị nạn miền Trung, Nam chán nản đưa vợ con trở về. Cộng sản tiếp thu Saigon, Nam như con chuột mắc nạn trong bẫy xập, cuống cuồng sợ hãi vì tin cộng sản sẽ lùng giết. Phan Nhật Nam, đại úy Nhảy Dù, nhà văn chống cộng lẫy lừng tên tuổi, thành viên đối nghịch to mồm nhất trong Ủy ban Liên hợp Quân sự? phải là thành phần Ngụy số một " có nợ máu với nhân dân ! " Nam hơn ai hết, hiểu rõ bản chất đê tiện của cộng sản, biết rõ những gì đang chờ đợi mình và Nam tìm chỗ ẩn thân. Nam bỏ Saigon về Long Khánh làm rẫy trước khi cộng sản có chương trình lùa dân đi kinh tế mới. Nhưng Nam biết trước sau gì cũng không thể lẩn trốn được cái mạng lưới công an tinh vi cộng sản một khi chúng cố tình lùng kiếm và vì Phan Nhật Nam quá nổi. Ngày 22-6-75, Nam ra trình diện học tập và bị giam tại trại Long Giao. Chính tại đây, Nam đã viết trong bản tự khai, " Trong đời tôi, tôi chỉ có một điều ân hận là có ông bố hành nghề cộng sản ! "

Bố Nam theo kháng chiến từ năm Nam 7 tuổi, hiện là một nhân vật cao cấp trong Chính trị bộ Hà nội, tên Phan Văn Trình. Mẹ Nam là bà Ngô Thị Phương Dung, chết năm Nam 18, học trường Phan Chu Trinh, Đà nẵng. Nam sinh ngày 10-9-43 tại Huế nhưng lớn lên tại Quảng nam. Sinh viên Sĩ quan Võ bị Quốc gia Đà Lạt khoá 18, ra trường năm 1963, tình nguyện đi binh chủng Nhảy dù. Năm 1968 ra khỏi binh chủng và thời gian sau Hiệp định Paris, Phan Nhật Nam là thành viên VNCH trong Ủy ban Liên Hợp Quân Sự Bốn Bên cho đến ngày miền Nam rơi vào tay cộng sản.

Những năm tại ngũ, Phan Nhật Nam từng tham dự hầu hết các chiến trường sôi bỏng ở quốc nội (1963-1973). Từ những địa danh nổi tiếng như Khe Sanh, Cồn Tiên, đến những làng nhỏ ở Cửa Việt, Diễm Hà Trung, Diễm Hà Nam, cho đến nững hóc hiểm hoang vu ở cuối thung lũng sông Kim Sơn; từ tây vực quận Hoài Ân, Bình Định, tới làng Mã Tây, vv? nơi nào Nam cũng tới và đã tham chiến, chỉ trừ chiến dịch Hạ Lào. Quãng đời binh nghiệp bôn ba đã cho Phan Nhật Nam quá nhiều chất liệu phong phú để dựng thành tác phẩm. Khởi nghiệp viết văn từ 1969 và đã nổi tiếng với tác phẩm đầu tay " Dấu Binh Lửa " .Sau này văn tài Phan Nhật Nam chói sáng hơn với tập bút ký chiến trường " Mùa Hè Đỏ Lửa " nói đến cuộc chiến khốc liệt cùng tinh thần chiến đấu hào hùng tuyệt vời của người lính Việt Nam Cộng Hoà trong những trận đánh rúng động thế giới ở Quảng Trị, An Lộc ... vào mùa hè binh biến 1972.

Ngoài những bài phóng sự, những truyện ngắn đăng rải rác trên các nhật báo, tuần báo, đặc san Saigon, Phan Nhật Nam chỉ trong 5 năm từ ngày khởi nghiệp, đã có một số lượng tác phẩm đáng kể xuất bản và tạo được tên tuổi, chỗ đứng riêng biệt trong làng văn : Dấu Binh Lửa ( Đại Ngã, 1969, Hiện Đại tái bản 1974 ) - Dọc Đường Số Một ( Đại Ngã, 1970 ) - Mùa Hè Đỏ Lửa ( Sáng Tạo, 1972, tái bản 2 lần, 1973, 1974 ) - Ải Trần Gian ( Đại Ngã, 1970 ) - Dựa Lưng Nỗi Chết ( Hiện Đại, 1973 ) - Tù Binh và Hoà Bình ( Hiện Đại, 1974 ).

Những tác phẩm Phan Nhật Nam dự định xuất bản nhưng không thực hiện được vì biến cố 30-4-75 gồm: " Những Ngày Hè Cuối Cùng - Đá Nát Vàng Phai - và Mặt Trận Quảng Trị " ( còn có tên Trên Giòng Đá Đổ Mồ Hôi ).

Chưa hết, Phan Nhật Nam hiện đang ở trong trại tù cộng sản nhưng vẫn còn cầm bút. Hơn cả Phùng Quán với " Giấy bút tôi ai cướp giật đi, tôi vẫn dùng dao viết văn lên đá ... " Phùng Quán khi viết những câu thơ phẫn hận ấy, trên vai vẫn còn mang quân hàm của chế độ, không ở trong tù, vẫn còn phương tiện để mà viết và còn có được cơ hội phổ biến là tờ Nhân Văn Giai Phẩm.

Phan Nhật Nam bị đưa ra Bắc từ 22-6-76, qua những trại tù kinh khiếp nằm sâu trong rừng núi thượng du Bắc Việt nước độc giết người: Sơn La, Lai Châu, Tuyên Quang, Hoàng Liên Sơn và cuối cùng hiện ở trại tù số 5 Thanh Hoá thuộc hệ thống Trại Đầm Đùn, hay trại tù Lý Bá Sơ khủng khiếp bậc nhất trong hệ thống tù cộng sản. Nhưng Phan Nhật Nam vẫn viết. Viết trong những điều kiện trăm phần khốn cực hơn Phùng Quán. Viết lén lút phập phồng dưới nắng lửa, mưa dầm, trong tối tăm đói lạnh, vây quanh bởi những cặp mắt nham hiểm rình mò cú vọ của một bầy lang sói. Suốt năm năm tù tội đọa đầy, Nam đã dựng khung hai tác phẩm trường thiên " Đá Nát Vàng Phai " và " Luyện Ngục Rực Lửa " cùng những trang nhật ký gửi vợ con yêu dấu. Hai tập dàn bài Nam dấu cất đã bị khám phá và tịch thu. Nam bị chúng đánh đập, cùm xiềng, giam vào hầm đá biệt lập tối tăm lạnh buốt, chịu đựng đói khát cực khổ suốt ba mươi nhăm ngày đêm thảm nhục và cuối cùng Nam đã sống còn như một nhiệm mầu. Nam còn hơi thở nghĩa là còn nghị lực, còn vững vàng ý chí để phấn đấu, để tin yêu và hy vọng, không quên mình là một Hướng đạo sinh " Vui Vẻ Trong Mọi Khó Khăn ", không quên mình là lính Nhảy Dù " Cố Gắng " , không quên mình là một chiến sĩ có thêm nặng trên vai thiên chức Nhà Văn! Nam thể hiện nỗi thảm thương khổ nạn của kiếp tù đầy nhục nhã của chính mình và chung của hàng trăm ngàn bạn bè chiến hữu đồng cảnh ngộ vào những trang nhật ký đầm đìa máu lệ gửi cho vợ con, như một tiếng kêu thương bi thiết gửi cho người thế giới bên ngoài.

Những trang nhật ký này, coi như tác phẩm mới nhất của nhà văn Phan Nhật Nam viết trong lao tù cộng sản và tôi đang có trong tay.

Do một người bạn cùng khoá với tôi và là bạn chung của tôi và Nam gửi cho, khoảng trung tuần tháng 10-80, với lời nhắn " Nam nhờ tôi trao cho bạn, để làm cách nào vận động cứu Nam, nếu không nó chết." Bạn tôi là Đại úy hoa tiêu Không lực, rất thân với Phan Nhật Nam, ra trình diện cùng ngày, chung chuyến tầu ra Bắc và đôi ba lần cách khoảng bị giam chung với Nam cùng một trại tù. May mắn cho Nam là Chử Quân Anh trước ngày được cộng sản phóng thích nhờ bao công lao tốn phí vận động của người vợ có quốc tịch Pháp, đã vì bạn, mưu mô lén dấu giúp Nam đem ra được tập nhật ký và mang qua Pháp an toàn. Quân Anh cho tôi biết Nam bị liệt vào thành phần tù chính trị ngoan cố và chúng đã dành sẵn cho Nam bản án tử hình. Nếu không, nhẹ nhất cũng khổ sai chung thân vì Phan Nhật Nam cương ngạnh vô phương cải tạo. Quân Anh còn cho tôi biết thêm rằng tình trạng sức khoẻ của Nam hiện tại rất là thê thảm. Cái thân hình vốn gầy gò mảnh khảnh của Nam " bây giờ tiều tụy suy nhược, ông không thể nhận ra đâu ..." Lao động quá sức và ăn đói, bệnh tật không thuốc men đã khiến Nam chân run không đứng vững. Đầu váng, mắt hoa, lúc nào cũng nghe tiếng ve u u trong óc. Phổi hư, răng mục nguyên hàm, tóc rụng từng mảng vì nhiều thứ bệnh tù: bệnh thiếu dinh dưỡng, bệnh ghẻ ngứa, bệnh tê thấp, bệnh đau dạ dày, bệnh trĩ nội xuất huyết hậu môn ngày hàng lít máu ... Thế mà vẫn phải khổ dịch lao tác mỗi ngày. Phá rừng, xẻ núi, còng lưng đập đá, oằn người bấu những ngón chân bật máu đẩy từng xe đá hay kéo vần khối gỗ nặng trên cả sức người khoẻ mạnh vượt hai cây số đường đèo trơn trượt ... Thế mà vẫn phải chỉ một buổi sáng cúi xuống, nhấc lên, khuân 670 tảng bùn nước nặng trung bình 10 kilô hay 6 tấn 7 cho một thân tù ốm yếu? Thế mà trời đông hàn vẫn phải trần truồng ngâm mình dưới dòng sông giá buốt đẩy từng bè củi, lội ngược con nước về trại cách xa 4 giờ đường bộ trong trong cái lạnh cắt da của 7 độ centigrade !

Tôi mềm nhũn cả lòng. Những dòng chữ nhỏ kín đầy hai mặt những trang giấy xé ra từ quyển vở học trò tồi tàn phẩm chất sản xuất từ cái gọi là xã hội chủ nghĩa miền Bắc đúng là nét chữ cứng cỏi thân quen của Phan Nhật Nam. Cái văn chương ngôn ngữ kết đọng thành khối đau thương thống hận vô cùng đó đúng là thứ văn chương ngôn ngữ chỉ một Phan Nhật Nam có được.

Định mệnh nào đã đưa Nam vào con đường khổ nạn đắng cay nhường ấy ? Định mệnh nào cay nghiệt đã khiến cha con Nam đối đầu chủ nghĩa, để rồi ngày trùng phùng trong nghịch cảnh, Nam chỉ biết u oán nhìn cha thinh lặng qua chấn song tù, nước mắt khổ đau tủi hận chan chứa tuôn rơi ?... Ba mươi năm đi làm cách mạng để đổi lấy một ngày " chiến thắng " trở về thấy cảnh gia đình ly tán. Để thấy đứa con trai tù tội. Để chứng kiến cái chết u uất của đứa con gái. Em gái Nam có chồng học tập, tuyệt vọng hủy đời xuân sắc trước cặp mắt ngỡ ngàng đau đớn của người cha cộng sản .

Còn Nam, Phan Nhật Nam đã như một anh hùng ngã ngựa, hiên ngang bước vào lò luyện ngục với nụ cười khinh mạn. Hiên ngang nhận chịu những ngón đòn thù đê tiện và cực cùng độc ác. Để chứng tỏ đởm lược của một chiến sĩ Nhảy dù, chứng tỏ hào khí của người lính quốc gia, chứng tỏ phong thái bất khuất của một nhà văn hữu hạng miền Nam, Nam đã chối bỏ những lời dụ hoặc để làm tờ khai tự thú theo ý muốn cộng sản, chối bỏ đặc ân từ ảnh hưởng chức vụ người cha và bởi thế, vợ Nam mới bị ngăn cấm liên lạc với chồng. Những lá thư gửi vào trại tù, vợ Nam phải dùng tên khác, gửi cho người khác nhờ chuyển đến Nam lén lút. Và bởi thế, bố Nam không thể làm gì cưỡng chống mệnh lệnh đảng can thiệp cho Nam. Trong suốt 5 năm tù tội, Nam chỉ được vợ con thăm nuôi một lần duy nhất, nhưng không phải là một cuộc thăm tù chính thức. Vợ Nam phải chạy vàng hối lộ cho bọn công an bộ đội để có giấy tờ mạo danh, dắt hai con thơ lặn lội đường trường ra Bắc thăm chồng.

Đó là lần gặp gỡ ngắn ngủi, cực cùng chua xót và cảm động vào tháng 5-79 mà Nam đã viết trong trang đầu nhật ký. Những dòng máu lệ đầm đìa thương tủi ấy, tôi đọc mà rúng động. Tôi nhìn thấy cảnh tủi mừng đau đớn của cuộc trùng phùng thực hư ảo mộng giữa cha con chồng vợ trên bờ đê lộng gió. Tôi thấy những giọt nước mắt thảm sầu thánh thót rơi trên những gương mặt khổ đau thống hận. Và nghe, và cảm nhận được tất cả nỗi u oán uất nghẹn không thốt thành lời trên những đôi môi khô héo, trong những tia nhìn chĩu nặng tủi hờn. Thật tội thương Nam. Thật hết sức đáng yêu và vô vàn cảm phục. Quân Anh nói với tôi nhiều chuyện về Nam và khẳng định một điều rằng trong tù Nam sống không hèn. Tôi biết Phan Nhật Nam vững vàng bản ngã, đầy ắp tình người, tình yêu thương đồng loại. Cao cả biết bao nhiêu khi nghe Nam nói đến cái chết của đứa bé gái con " em Lợi " . Nói đến những người tù nữ, đến những đứa trẻ tuổi măng thơ sinh ra và lớn lên trong đói khổ trại tù, lây lất, bơ vơ ... " Những đứa bé da nhăn như người già vì thiếu dinh dưỡng " !

Đọc những dòng diễn tả trong nhật ký, tôi nhận ra Nam vẫn nguyên tròn bản chất. Một Phan Nhật Nam vui tếu tàng tàng. Một Phan Nhật Nam người hùng Mũ đỏ. Một Phan Nhật Nam trọng danh dự và nhất ngôn. Cái tinh thần Hướng đạo Nam hằng ôm giữ, cái châm ngôn " Vui Vẻ " chỉ nam cho đời sống, Nam đã tận tụy thi hành ngay cả trong những giây phút Nam đang " Dựa Lưng Nỗi Chết " ! Tôi đã mỉm cười trong nước mắt ngậm ngùi ... Thân xác Nam rũ liệt nhưng tinh thần Nam còn vững thẳng với bao gắng gượng, dưỡng nuôi nghị lực để sống còn cho hy vọng mãnh liệt có một ngày về mà Nam gọi đó là sự " Phục Sinh Mầu Nhiệm ", bằng vào niềm tin nơi Thiên chúa, bằng vào tình yêu vợ thương con quá mạnh. Tôi bồi hồi cảm động khi thấy Nam viết say sưa về cái mộng ra tù cầm bút viết văn trở lại, kiêu hãnh, nồng nàn khoe với vợ con về tập bản thảo của hai cuốn trường thiên viết trong tù ngục? Lại còn cái ước ao có được chiếc khẩu cầm để thổi te te trước giờ lên võng mỗi đêm. Lại còn đỏm đáng chuốt trau nhân dáng, dù cho tàn tạ cũng là nét tàn tạ rất " hùng " của một Sĩ quan Cộng Hoà xuất thân Võ Bị, hỏi xin cái nón rộng vành che nắng lửa trời hè lao động nhưng nhất định không phải là thứ nón tai bèo của mấy chú Vi-Xi ! ... Thật tội thương Nam, dù trong khổ nạn vẫn cố đem vui sống cho đời, dù trong đầy đọa cũng không đánh rơi nhân phẩm và chịu đồng hoá với bầy ác thú.

Tháng 3-80, vợ con Nam đã vượt biên bằng đường bộ tới Thái Lan và đến nay khi tôi viết những dòng chữ này (tháng 2-81), ba mẹ con vẫn long đong cơ cực sống trong trại tị nạn Sikew. Phải hiểu một khi quyết định rời bỏ miền đất quê hương chẳng biết dung người ấy, chị Nam đau đớn thế nào và Nam ngẩn ngơ rúng động thế nào khi biết vợ con mình từ nay đã xa cách nghìn trùng, để lại bên trời khổ nhục mình Nam với nỗi cô đơn trầm thống. Phải mất một thời gian dò tìm liên lạc, tôi mới có địa chỉ viết thư xin ý kiến chị Phan Nhật Nam về việc phổ biến tập nhật ký. Bởi vì dầu sao những trang nhật ký này Nam viết riêng cho vợ con và là báu vật thiêng liêng chỉ riêng vợ con Nam có quyền tư hữu. Hơn thế nữa, việc công bố nhật ký làm sao tôi dám tự chuyên vì ảnh hưởng rất lớn tới nỗi an nguy của Nam. Tôi nghĩ tới trường hợp nhà văn Doãn Quốc Sĩ cùng những lời hy vọng của Nam đã viết và ủy thác Chử Quân Anh trao tập nhật ký cho tôi, việc trước tiên tôi có thể làm được là liên lạc với anh Trần Tam Tiệp, tổng thư ký Văn Bút Việt nam Hải ngoại nhờ vận động với Văn Bút Quốc Tế cùng các cơ quan quyền lực quốc tế can thiệp cho Nam được tự do.

Anh Trần Tam Tiệp đã sốt sắng lo liệu. Phan Nhật Nam có tên trong danh sách tù nhân văn nghệ sĩ được hội Văn Bút Quốc tế trực tiếp can thiệp. Hơn thế nữa, Phan Nhật Nam còn được ghi tên dự một giải văn chương quốc tế với tác phẩm là tập nhật ký này. Ủy ban Ân Xá Quốc Tế cũng lấy tên và địa chỉ trại tù để gửi quà tặng cho Nam. Tôi báo tin và chị Nam viết trả lời, " Nếu anh thấy việc công bố nhật ký của Nam nhất thiết phải làm thì anh cứ tùy tiện. Cũng như anh, tôi hơi lo không biết việc ấy có lợi hay hại cho Nam song đành vậy. Tôi rất mừng khi biết Pen Club gửi quà tặng cho Nam. Những món quà của Pen Club có một giá trị tinh thần đáng kể. Nam sẽ phấn khởi và hy vọng hơn khi biết có sự chú ý của bên ngoài đối với mình. Nghị lực cũng giống như vốn liếng, để không ăn dần cũng suy mòn hao hụt đi, rất cần sự tiếp sức ... "

Tôi chỉ chụp một trang nhật ký của Nam gửi cho chị đọc. Chị đau đớn viết cho tôi, " Những ngày trong trại tị nạn này cũng là những ngày tôi cảm thấy gần gũi Nam nhất trong suốt mấy năm nay. Có cái hạn chế của thực phẩm để cảm thông một phần nào cái đói. Có se da vì chăn Hồng Thập Tự phát quá ngắn không chùm kín đầu để cảm được cái lạnh của người đốn cây xẻ đá giữa buốt giá của mùa đông miền Bắc ... Tôi biết Nam là người yêu đời sống rất mãnh liệt, thế mà Nam đã ai oán kêu lên Thà rằng ta chết cho xong! thì đủ biết Nam bi phẫn tuyệt vọng đến nhường nào. Lòng tôi tan nát ..."

Tôi không thể chờ đợi lâu hơn để hoàn tất việc chuyển dịch tập nhật ký sang Anh ngữ phổ biến đồng loạt cùng bản văn Việt ngữ. Công việc này quả thực quá khả năng tôi vì văn chương ngôn ngữ Phan Nhật Nam vô cùng khó dịch, dù tôi có bỏ ra hàng ngàn giờ và dốc toàn vốn liếng cũng không thể chuyển ra ngoại ngữ trung thực và trọn vẹn mức độ bi thương thảm thiết chứa trong từng lời, từng chữ mà Nam đã viết bằng máu lệ đời mình. Tôi không thể để lâu hơn. Vì Nam đang quằn quại mỏi mòn ngóng đợi từng ngày, từng giờ. Vì những điều Quân Anh kể về tình trạng sức khoẻ của Nam và lời nhắn " làm thế nào vận động cứu Nam, không nó chết " ám ảnh tôi lo lắng bồn chồn.

Tôi xin gửi đến các báo chí Việt ngữ trên toàn thế giới, kính nhờ quý vị phổ biến rộng rãi trong mọi giới đồng bào tị nạn. Xin gửi đến các hội đoàn quốc gia tranh đấu chống cộng sản và tranh đấu cho nhân quyền. Gửi chung những bằng hữu thân biết Phan Nhật Nam, các nhà văn, nhà báo, các chiến hữu của Nam? với lời khẩn thiết kính xin quý vị tiếp tay phổ biến tài liệu này và vận dụng mọi phương tiện tranh đấu buộc cộng sản trả tự do cho nhà văn Phan Nhật Nam. Tiếng kêu thương của Phan Nhật Nam cũng là tiếng kêu thương đứt ruột của hàng trăm ngàn người Việt Nam của chế độ Tự do đang bị cộng sản giết dần mòn trong các trại tù cải tạo.

Tập nhật ký này nếu được các vị dịch giả thừa khả năng ngoại ngữ dịch ra Anh văn và Pháp văn, phổ biến cho nhân loại toàn cầu biết đến cái thảm trạng kinh hoàng của hệ thống lao tù cộng sản, phải là một công trình văn hoá lớn lao, không riêng gì Phan Nhật Nam cùng vợ con mang ơn quý vị, mà tất cả những người chống cộng trên thế giới đều biết ơn.


Đào Vũ Anh Hùng


Được đăng bởi Văn Học Nghệ Thuật vào lúc 12:07


SOURCE:
http://to-quoc01.blogspot.com/2011/04/ao-vu-anh-hung.html