PDA

View Full Version : Miêng



ngoctrongda
04-24-2013, 14:59
http://phunuviet.org/images/upload/Article/Nhan_vat_nu/Nu_Van_Thi_Si/Mieng1.jpg

Miêng (?? - ??)

Tiểu sử

Miêng tên thật là Võ Thị Xuân Sương, sinh quán Quảng Ngãi, Việt Nam . Sang Pháp cuối năm 1982, tốt nghiệp Luật (Sài gòn 1971) và Hoa ngữ (Pháp, 1987). Quản đốc thư viện (Thư Viện Quốc Gia Pháp, trách nhiệm phòng Việt ngữ). Giải nhất truyện ngắn do tuần báo "Hoa Tình Thương" tổ chức năm 1972



Đã xuất bản:

- Đôi Mắt, tập truyện ngắn, Sài gòn, 1973
- Tuyển tập truyện ngắn, 1998, Văn Mới, Hoa Kỳ
- Tuyển tập truyện dịch, 2001, Văn Mới, Hoa kỳ
- Cộng tác thường xuyên với Văn, Văn Học, Hợp Lưu (Hoa Kỳ), và Diễn Đàn (Pháp)




(phunuviet.org)



--- ~*~ ---


Trò, chuyện với nhà văn Miêng.

Triều Hoa Đại



Ðược biết chị đã tốt nghiệp về luật năm 71, nhưng khi sang đến Pháp chị lại không theo đuổi nghề «thầy cãi» mà lại đi học tiếng «chệt» để rồi tốt nghiệp cử nhân Hoa ngữ . Sao lại có chuyện «lọa» vậy thưa chị ?

- Thưa anh, tôi đã đi «cãi thí» ba năm trời. Ðáng lẽ tháng Sáu 1975 ra trường. Chừng qua Pháp thì biết là sẽ không cãi nổi ai, nên đi học Hoa ngữ, cũng là có "ý đồ" đó anh à. Vì cử nhân luật Việt Nam được cấp bằng tương đương của Pháp nên tôi tính học Hoa ngữ để làm "thông dịch viên có tuyên thệ" (traductrice assermentée) Pháp-Hoa. Nhưng khi đậu được cử nhân tiếng Hoa rồi thì lại không ham nghề đó nữa. Không ham mà cố làm, lỡ thiên hạ đáng lẽ bị tù một năm, mình làm sao họ bị mười lăm năm thì chết !

- Vậy thì sự "chung sống" giữa hai anh Tàu, Việt trong chị có «hòa thuận» hay không. Tôi muốn nói đến chuyện viết lách của chị ấy mà ?

- Thực ra anh Hoa chẳng đóng vai trò gì mấy trong chuyện viết của tôi. Anh coi suốt 21 truyện của Miêng, chỉ có "Quan Phu" là anh Hoa lộ mặt một chút thôi, ngoài ra ảnh trùm chăn ngủ yên. Và vì tôi "viết" mà không phải "lách" nên nhờ trời, Hoa-Việt sống chung hoà thuận.

Mấy mươi năm rồi chị nhỉ kể từ cái ngày chị được loan báo trúng giải nhất truyện ngắn của tuần báo Hoa Tình Thương, bây giờ mỗi khi có dịp hồi tưởng lại chị có thấy một chút bồi hồi, một chút xao xuyến hay không, ôn lại một chút kỷ niệm xưa cũ đi chị ?

- A, bồi hồi xao xuyến...! Dạo đó đang mùa thi, một hôm đang học tự nhiên thấy bị chia trí, mà khổ, chẳng phải vì chàng nào cả mới buồn! tự nhiên thấy cần viết cái gì đó, nó bức rứt lắm. Vậy là tôi viết, gửi cho báo Hoa Tình Thương đang tổ chức thi thơ và truyện. Chẳng biết lấy tên gì làm bút hiệu, tự nhiên lấy Miêng! Rồi cứ cười một mình vì cái tựa, chẳng nhắc làm chi, nghe vừa cải lương vừa sên sến thế nào. Bài bôi xoá sửa chữa tứ tung cũng cứ vậy gửi đi chẳng chép lại, nghĩa là nếu ông bưu điện lấy gói xôi, thì chẳng còn dấu vết gì của "tác phẩm vĩ đại" ấy cả. Hồi đó tôi ở cư xá nữ sinh, nhận số báo có đăng bài mình, tôi đọc và tủm tỉm. Bạn bè khen con nhỏ nào đây viết được quá, tôi cũng cứ tủm tỉm, chẳng nói gì. Hoa Tình Thương nhắn trên báo tới lãnh nhuận bút và mời cộng tác. Cộng thì cộng mà nhuận bút thì tôi chẳng tới. Mãi mấy tháng sau khi họ đăng mấy bài nữa tôi mới tới, vì hết tiền tiêu. Ông Phương Triều nói "bài cô hy vọng trúng giải", tôi chẳng tin đâu, và cũng chẳng cho biết địa chỉ. Một hôm, may quá, tình cờ ghé Khai Trí, thấy Hoa Tình Thương đăng Miêng trúng giải nhất và ngày hôm sau phát phần thưởng, tôi kêu lên nho nhỏ khoái chí và nói thật cho chị bạn nghe, nhờ chị ngày mai đi cùng, mà cấm không được kể cho ai biết.

Hôm sau chúng tôi tới nơi thì đã đông đủ cả. Ban tổ chức mừng rơn, họ nói nhắn hoài mà không thấy tôi trả lời, sợ bữa trao giải mà không có người thì mất vui đi. Và cái dễ sợ là thình lình họ mời tôi phát biểu ý kiến! Trời đất, tôi có chuẩn bị gì đâu! nhưng cũng phải lên diễn đàn, nói trăng hoa gì đó mấy câu mà thiên hạ vỗ tay như pháo ran (hay tai lùng bùng, tôi tưởng tượng vậy!). Ông Tổng Trưởng Ngô Khắc Tĩnh vừa trao giải vừa bảo cháu nói hay lắm. Sau đó ông Phương Triều bảo: Cô nói ít mà hay và tự nhiên. Anh coi, như vậy tôi có "khiêm nhượng" không nếu bây giờ tự động khen mình một tiếng ?

"Ðôi Mắt" là tập truyện đầu tiên của chị có phải thế không ? Chị còn nhớ những gì đã viết ở trong đó chứ ?

- Dạ còn nhớ. Nó gồm 7 truyện ngắn thôi in năm 1973.

Thế trong Ðôi Mắt chị đã viết về những gì nào ? tình yêu lứa đôi, chia lìa, ngăn cách, hay chiến tranh tù đầy và chết chóc ?

- Tất cả những cái đó. Nhưng ít chết chóc hơn MIÊNG vừa rồi, chỉ có hai cái chết thôi, mà chết nhẹ nhàng thơ mộng lắm nên không bị độc giả chê buồn

Trong Ðôi Mắt «chỉ có hai cái chết thôi, mà chết nhẹ nhàng thơ mộng lắm»? Ủa ! Lại còn có những cái chết «nhẹ nhàng và thơ mộng» nữa cơ à? Vậy muốn chết «nhẹ nhàng và thơ mộng» thì phải làm sao? Sở dĩ tôi hỏi chị kỹ như vậy là vì biết đâu đấy sẽ cần cho mình mai sau…

- Anh đúng là người lo xa! Sau khi Ðôi Mắt ra đời và một số bạn biết, mỗi lần viết cái gì tôi thường đùa : Bây giờ muốn cô này sống hay chết ? Hễ nhiều người nói chết thì tôi cho chết. Nên nếu có thể lựa chọn cái chết cho mình được thì anh cứ nằm lên ngòi bút của một bạn văn nào đó là yên trí sẽ được chết « sur mesure » !


Trước khi tập truyện Miêng xuất hiện, người đọc cũng nghĩ như nhà văn Nguyễn Nam Trân trong lời tựa «không cần nước trà và bánh quả bàng, Miêng vẫn có thể đưa chúng ta về thăm lại căn nhà dĩ vãng » chị làm thế nào mà lại tài tình đến như thế, xin chị vui lòng « bật mí » một vài bí quyết trong lúc viết văn của chị ?

- Thưa anh, tôi vẫn thường nói văn tôi già và nhà quê, nên ai cũng thấy "bánh quả bàng" chớ không phải bánh sâm banh. Xin cám ơn qúy anh đã khen tôi "tài tình". Còn về "bí quyết" thì có lẽ tôi "không làm văn", tôi cứ viết giản dị, nghĩ sao viết vậy, như nói, mà dĩ nhiên không cà lăm cà lặp. Tôi không cố ý trau chuốt. Tôi nghĩ truyện ngắn thì phải "có vẻ như thật", phải rõ ràng ngắn gọn.

- Chị đã biết mà, khi Miêng vừa mới trình làng thì ngay lập tức đã có những tiếng vang làm đảo lộn nhiều ý kiến bi quan cho rằng văn học ở ngoài nước hiện nay «èo uột». Thế thì văn học hải ngoại của chúng ta có «èo uột» hay không, theo chị ?

- Thưa anh, có lẽ nó "èo uột" theo cái nghĩa là một số người đã từng viết trong nước, bây giờ đổi đời, một cuộc đời chắc trong thâm tâm họ không hội nhập dễ dàng vui vẻ, nên thường viết với giọng văn nuối tiếc nhớ nhung. Cái đó giới trẻ không thích. Còn giới trẻ viết thì với lối văn mới mà giới "già" chúng ta không thích. Như Yu Miri, một nữ văn sĩ Nhật gốc Ðại Hàn, được giải Akutagawa (tương đương giải Goncourt của Pháp), tôi đọc không thấy thích vì văn hơi "sống", chắc cũng tại già rồi. Nên đối với giới trẻ nhà mình, chắc gì Miêng gây nên một cảm xúc nào ?

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết «mỗi lần đọc một tác phẩm hay mới xuất bản của văn chương hải ngoại, tôi mừng rỡ, sau đó bần thần khôn nguôi». Trước khi cho xuất bản Miêng, chị có «bần thần khôn nguôi» không ?

- Thưa anh hoàn toàn không. Phản ứng của độc giả đối với Miêng thật là một món quà tinh thần quý giá bất ngờ.

Nhà văn có thể vừa là bà tiên mà cũng vừa là phù thủy được không ? Bởi vì mới ở dòng đầu họ viết thật ngọt ngào, thật gắn bó yêu thương, nhưng ngay những dòng kế đó thì họ lại viết thật phũ phàng, cay đắng ?

- Nếu đúng là "nhà văn" thì tôi nghĩ chắc được. Một diễn viên giỏi là người thủ được nhiều vai, và vai nào cũng xuất sắc. Nhưng "nhà văn" kiểu đó thì là nhà-văn-nhà-nghề rồi. Trong khi chỉ là "người viết" hay "nhà văn nghiệp dư" để tình cảm dẫn dắt thì tôi vẫn tin "văn là người", ít nhiều gì nó cũng phản ánh tâm hồn mình trong cách viết.

Truyện Cái Giếng của chị đã có rất nhiều độc giả ưa thích. Bởi vì ở đấy (theo tôi) chị đã vẽ ra những cảnh đời có thực : gian dối, lọc lừa đủ cả. Nhưng đạo đức thì dù ở nơi nao, chỗ nào thì cũng thế nó là cán cân để duy trì và làm ngay thẳng con người. Chị đã tạo ra vị linh mục trong truyện có phải vì lẽ đó hay không ?

- Thưa anh, chẳng thiếu gì tác giả cho rằng tiểu thuyết chính nó là một quái vật trong văn chương nếu người ta không rút tỉa được cái gì cho cuộc sống..., kiểu ''văn dĩ tải đạo'' bên mình. Trong ''Cái Giếng'' tôi muốn nói một sự thực là nhiều người ngay cứ thường bị rủi ro bất hạnh, là không hẳn cứ ở hiền là gặp lành. Nếu ''Cái Giếng'' làm độc giả thấy được điều đó thì tôi cho là mình thành công rồi !

Một vị độc giả ở Washington đã không ngớt lời ca tụng Miêng. Chị có nghĩ rằng mai kia mốt nọ Miêng cũng sẽ tạo được một chỗ đứng trên văn đàn trong nước hay không ?

- Chắc anh cũng đồng ý là có nhiều cái mình không chứng minh bằng khoa học được. Ví dụ có số mạng không, số mạng mỗi người có được Thượng đế sắp đặt trước không, và nếu sắp đặt trước thì con người có thể thay đổi được không... Cho nên lúc thì "mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", lúc thì "xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều"... Tôi không dám có tham vọng "chứng minh", nhưng có lẽ trong tiềm thức, cái phạm trù mà các nhà xã hội học gọi là "kết quả trớ trêu" (effets pervers), kiểu "yêu nhau mà lại bằng mười hại nhau", đã nằm sẵn rồi.

Chị có phải là nhà văn cẩn thận và chừng mực không?

- Trong hai ngày giới thiệu MIÊNG (ngày 13-11 ở nhà anh chị họa sĩ Phan Nguyên-Huỳnh Anh, và ngày 20-11 ở nhà anh chị Huỳnh Hùng-Quỳnh Dao), tôi đều nói là chưa bao giờ tôi tự cảm thấy mình là "nhà văn", mà chỉ là một người "kể chuyện" thôi. Cho nên nhà văn thiệt thì không biết họ viết như thế nào, về phần tôi thì muốn viết cứ ngồi vào máy, không suy tính phải cẩn thận, chừng mực gì cả. Nếu được tiếng "cẩn thận chừng mực" chắc tại tôi không quen viết dông dài.

- Chưa bao giờ cảm thấy là nhà văn, nhưng chị có biết chị là một người kể chuyện duyên dáng hay không ?

- Thật hả anh. Ðược nhãn hiệu «người kể chuyện duyên dáng» là hạnh phúc rồi!

- Tôi đã tình cờ đọc được ở đâu đó một câu đại khái là: Nhà văn không cần phải có bằng cấp mà vẫn viết hay...

- Ý kiến đó có thể đúng, nhưng không giản dị đâu anh. Ðúng là khi viết văn chẳng ai hỏi bằng cấp của mình. Nhưng nhà văn đúng nghĩa thì anh coi như... à, ví dụ Simone De Beauvoir đã nâng cao ngọn cờ của phong trào phụ nữ với quyển "Le Deuxième Sexe", hay nhà văn "dấn thân" (không biết tôi dùng chữ này đúng không, Pháp văn gọi là "engagé") như George Orwell với quyển "1984", hay Boris Pasternak viết "Docteur Jivago". Và biết đâu chừng số đảng viên Cộng sản chẳng tăng vọt sau khi quyển "The Grapes of Wrath" của John Steinbeck ra đời ? Họ gây ảnh hưởng lên cả một phong trào, một xã hội. Cho nên nhà văn cỡ đó đâu cần gì bằng cấp, cái chính là tâm hồn, là tư tưởng của họ. Như trường "Collège de France" chỉ đòi anh có bằng tiểu học thôi, nhưng ai được mời vào dạy là cả một vinh dự ghê gớm, và toàn là những "cái đầu vĩ đại" của Pháp cả đấy !

- Theo chị thì tập truyện Miêng đã có một chỗ đứng trong văn học hải ngoại chưa ?

- Sao anh không nói «chỗ ngồi» ? Hỏi gì mà mà mới nghe đã thấy mỏi chân ! Có thể tôi cũng thuộc loại người hay mơ mộng đấy, nhưng chuyện "chỗ đứng" thì tùy thuộc vào độc giả, vào trào lưu văn học chứ mình "nghĩ" gì được. Và văn học luôn luôn gắn liền với chính trị, với lịch sử. Nếu không có năm 1975 thì đâu có "văn học lưu vong". Với lại tôi cho là nếu cứ đặt chuyện "chỗ đứng" quan trọng quá, mình sẽ bị lệ thuộc vào nó, nó sẽ gò bó mình và viết sẽ không còn là một thú vui nữa

- Lúc còn sinh tiền, nhà văn Mai Thảo cũng có lúc nhìn văn chuơng trong một bầu trời u ám. Ông cho rằng «văn chương đã xuống giá với sự bàng quang không chú ý của độc giả». Trong khi đó Miêng của chị lại được độc giả chào đón nồng nhiệt. Vậy, theo chị thì văn chuơng đã xuống giá hay là đã và đang lên giá ?

- Nếu quả thật văn chương đang xuống giá, và nếu quả thật Miêng đã được "chào đón nồng nhiệt" như anh nói, thì một mình Miêng có làm cho văn chương ngóc đầu lên nổi đâu! Nếu nó xuống thì vì cả tập thể, nếu nó tăng thì cũng sẽ nhờ tập thể bao nhiêu người viết. Một mình con én Miêng đâu có đem lại mùa xuân anh! (đó là nếu thực sự Miêng là con én) Có thể nó làm lên tinh thần, thêm khích lệ cho các cây bút đang còn ngần ngại nằm e ấp đâu đó thôi. Nhiều người viết hay lắm chứ, mà họ chưa chịu in. Như anh có đọc Mai Ninh không? Tôi thấy đó là người viết rất vững vàng, rất văn chương.

- Với 21 truyên ngắn trong Miêng chị phải cần một khoảng thời gian bao lâu để hoàn tất?

- Dông dài chút được không anh? Khi "Ðôi Mắt" ra đời, cũng được bàn tán lắm. Anh mà đọc bài Bạt của ông Nguyễn Ðình Tuyến viết về quyển sách, về Miêng, thì chắc anh cũng té ngửa! Tôi đọc bài viết về mình mà cứ tưởng ai. Nhưng hồi đó trẻ người non dạ, không thấy "nhột" lắm, bây giờ "tri thiên mệnh" rồi, nghĩ lại thấy mà ớn lạnh. Sau đó tự nhiên tôi không viết được nữa. Tới năm 1990, báo Xây Dựng bên Mỹ có tổ chức thi truyện ngắn, tôi thích thi, thử xem có còn ra gì không. Giải thì chẳng được cái giải gì, nhưng nhà tôi đọc đi đọc lại, bảo: Viết như vầy mà em bỏ không viết nữa thì uổng quá". Ðược lời như cởi tấc lòng, và dù được nhà tôi rất khuyến khích nhưng thỉnh thoảng tôi mới viết tùy hứng nên không nhiều. Bởi vậy anh coi, từ 1990 đến giờ mới trình làng được một quyển thôi.

- Và truyện nào, nhân vật nào trong 21 truyện ở Miêng được chị yêu thích nhất, tại sao?

- Tôi thích truyện "Biển" và người đàn bà trong "Biển". Truyện thật ngắn mà nói lên hoàn cảnh xã hội, tình đồng bào của dân Việt Nam. Người đàn bà đó giản dị, độ lượng và nhân đạo quá chừng!

Mỗi lần ngồi xuống để viết chị có cảm thấy văn chương là chuyện nhọc nhằn hay không?

- Ô thưa anh không. Mỗi lần ngồi xuống để viết - và nhất là viết ra được cái gì - là một thú vị vô biên! Nhà tôi là độc giả đầu tiên. Mỗi lần viết xong, tôi nhờ nhà tôi in ra đọc và phê bình. Có khi viết xong mà không biết đặt tên gì, lại nhờ nhà tôi đặt giùm, và khi nghe phán "truyện được" thì tôi thấy yên tâm, vì "lão" này thuộc loại "khó chịu", nếu cho "được" thì ít nhất trong số độc giả sẽ chê cũng bớt đi một người.

Chị làm tôi nhớ lại trước đây hồi còn ở Sài Gòn, có những ông nhạc sĩ mỗi khi sáng tác xong một bản nhạc trước khi tung ra thị trường bao giờ cũng hát cho người nhà thưởng thức trước. Hễ người nhà tấm tắc khen thì y như chỉ vài ngày sau đài phát thanh rộn ràng hát bài của «chàng». Còn ở đây «bớt đi một người» chê, như thế vậy thì chắc là phải khen anh Khoa một phát mới được. Vậy thì anh ấy cũng có công đóng góp công sức, thế mà tìm mãi không thấy tên anh ấy trong Miêng. Tôi cho là «bất công», còn chị?

- Thưa anh, đúng một phần thôi. Ðúng là nếu không có công sức nhà tôi thì Miêng thanh «Miên» mất! Nhưng vợ chồng là cùng chung vai sát cánh nhau trong mọi hoàn cảnh sung sướng hay cực khổ. Và anh tưởng tôi không có «công sức» trong những bài nhà tôi viết à? Mà cũng đố anh tìm ra tên tôi.

Chị có thử viết một thể loại nào khác, ngoài truyện ngắn không? kịch chẳng hạn…

Nhà tôi và một số bạn bè vẫn khuyên nên viết kịch và truyện dài. Hồi ở Việt Nam tôi có thử rồi nhưng không được. Viết truyện dài thì phải dông dài, mà tôi dông dài không được. Dĩ nhiên nhà văn thứ thiệt và có tài thiệt thì viết ngắn dài gì cũng xong. Tôi không nằm trong số đó.

Ý kiến của đám đông thì bao giờ cũng trái ngược. Chị có thể cho biết ý kiến của chị về tuơng lai của văn học hải ngoại không? Vui hay buồn?

- Chết anh ơi, tôi không có thói quen "tiên đoán" những cái mình không nắm được. Chuyện văn học, nếu tôi nói "buồn" thì bi quan, nếu tôi nói "vui" thì như thế nào là vui? Dựa vào tiêu chuẩn nào? Tôi nghĩ chẳng nên đặt tiêu chuẩn "vui, buồn" hay "mạnh khoẻ, èo uột" gì cả, nếu có người thấy thế này thì cũng có người thấy thế kia. Hồi Tự Lực Văn Ðoàn ra đời, có phải mọi người đều theo hết hay chống hết đâu. Nhưng có cái tôi không đồng ý là một số người cho rằng chẳng nên viết về Việt Nam nữa, xa xưa rồi, phải nên viết gì về xã hội và đất nước mình định cư thôi. Tại sao vậy, tôi không hiểu. Ðất nước mình có hai thảm hoạ ghê gớm là chiến tranh và cuộc di cư vượt biên. Ðâu phải chiến tranh mình ít thảm khốc hơn chiến tranh Tây Ban Nha (1936-1939), mà sao họ có được "For whom the bell tolls"? Bộ những cuộc vượt biển của dân mình không vĩ đại bằng cuộc di dân của Do Thái hay sao mà họ có được "Exodus"? Chẳng lẽ mình chỉ có "Mùa Biển Ðộng" của Nguyễn Mộng Giác, hoặc của ai nữa mà tôi không được biết.. Nhưng tôi vẫn tự hỏi đã đạt tới mức độ quốc tế như mấy quyển kia chưa? Nỗi đau như vậy mà mình chưa nói hết thì sao bảo đừng nói nữa ? Cái thứ hai là một số người quan niệm phải chạy theo kiểu viết của người ngoại quốc! Chi vậy? Vẫn biết dân VN ta có máu vọng ngoại, nhưng dù là Pháp, Mỹ hay Úc... thì cũng chỉ là những bối cảnh, cái hình thức; có thể hiện được Con Người, hay ít ra là Con Người VN trong các bối cảnh ấy hay không, đó mới là vấn đề. Hay là tôi hiểu sai quan điểm này?

Bao giờ (theo tôi) thì phần kết luận cũng khó khăn và nặng nhọc cả. Tôi thì rất vụng về, vậy thì xin mời chị hãy giúp tôi làm cái công việc khó khăn, nặng nhọc này, nghĩa là kết luận hộ cho buổi nói chuyện hôm nay giữa chúng ta?

- Thưa anh, vậy thì cứ làm theo như Actors Studio bắt chước "Bouillons de culture" của Bernard Pivot đi, là hỏi tiếng động nào tôi thích nhất, tiếng động nào tôi ghét nhất, mùi vị nào tôi ưa nhất... vân vân...

Chị có cần thêm thắt gì nữa không cho buổi nói chuyện hôm nay ?

- Anh chưa thấy đủ sao?



--- ~*~ ---

ÐỌC MIÊNG

Nguyễn Mộng Giác




Mỗi lần đọc được một tác phẩm hay mới xuất bản của văn chương hải ngoại, tôi mừng rỡ, sau dó bần thần khôn nguôi.

Mừng rỡ, vì kho tàng văn học của người Việt có thêm một báu vật. và bần thần khi nghĩ trong hoàn cảnh lưu vong thất tán hiện nay của chúng ta, tác phẩm giá trị ấy trong tương lai sẽ ra sao, tác giả và tác phẩm có được định vị xứng đáng trong văn học sử của dân tộc hay mất hút trong đống lưu niệm bề bộn của không biết bao nhiêu sắc dân di cư trên thế giới. Người Việt chúng ta có kinh nghiệm di dân thua xa người Hoa, người Do Thái, người Ý, người Ðức.

Trong số những người Hoa được mộ qua Hoa Kỳ làm phu đường sắt trên một trăm ba mươi năm trước, tôi đoán thế nào cũng có những người có tài làm thơ. Ðời kham khổ quá, cô đơn trên xứ lạ, quê hương mịt mù, thân nhân mòn mõi chờ đợi bên kia đại dương mà hy vọng hồi hương mong manh, bấy nhiêu tình ý ấy tất nhiên phải kết tụ thành thơ. Và thơ ấy nhất định phải hay. Ðau khổ tột cùng thường đi đôi với thi ca tuyệt vời. Những phu đường sắt người Hoa thời ấy lại bị người da trắng cấm bước chân tới những nơi tương đối sạch sẽ như hàng quán, công viên… nên càng mê những vần thơ «cám cảnh, ngôn chí» của bạn thơ đồng hương. Chưa có máy Xerox, chưa có Internet, không có báo cộng đồng, họ chép tay những bài thơ ấy chuyền cho nhau, số bản sao có lẽ không nhỏ. Những bài thơ ấy nay về đâu?

Những câu hỏi ấy cứ ám ảnh tôi, sau khi đọc tuyển tập truyện ngắn của Miêng (bút hiệu của nhà văn nữ Nguyễn Thị Xuân Sương, hiện ở Paris), do nhà Văn Mới vừa xuất bản.

Từ lâu tôi đã đọc truyện ngắn của Miêng trên các tạp chí văn chương như Thế Kỷ 21, Văn, Hợp Lưu, Văn Học, và khâm phục lối viết truyện ngắn độc đáo của chị. Nhưng cái hay, cái độc đáo hiện rải rác từng mảng đây đó không giúp cho tôi thấy hết giá trị văn chương của Miêng. Phải chờ đến lúc chị tuyển 21 truyện ngắn để nhà Văn Mới xuất bản thành sách, rồi sách in ra với mẫu bìa khác thường (chỉ có một chữ Miêng to tướng và tên nhà xuất bản, người mua sách bình thường không thể biết sách thuộc loại gì, của ai…), tôi mới nhận thức được hết tài năng văn chương của tác giả.

Về nhân vật: Trong bài Tựa, Nguyễn Nam Trân viết: «Tôi có cảm tưởng nhân vật của Miêng phần lớn như mang một vết thương chưa lành hay chưa biết bao giờ lên sẹo». Trước đó, Nguyễn Nam Trân có giải thích tính cách nhân vật truyện của Miêng: «(Tác phẩm) ghi lại bao nỗi thăng trầm của những đời người trong đó có bạn, có tôi. Chúng mình vẫn là những kẻ sống sót của một thời máu lửa, và vẫn còn là nhân chứng của một thời hỗn mang, đến nay mỗi ngày vẫn còn như đi trên dây xiếc để giữ một thế quân bình cho tâm hồn».

Tôi hoàn toàn đồng ý với ghi nhận của Nguyễn Nam Trân, chỉ xin thêm điều này: Hầu hết những nhân vật bị thương của Miêng đều là phụ nữ. Nhà văn bày ra trước mắt chúng ta những mẫu đời phụ nữ bị đày đoạ, bị đẩy tới những hoàn cảnh nghiệt ngã đến nỗi điên loạn, hoặc phải chọn cái chết vì không có lối thoát. Bi kịch được tác giả đẩy lên tới cùng cực, và số phận (hay định mệnh) không nương tay cho bất cứ ai, từ một người mẹ quê chất phác nhận tiền tử của con mà cứ hí hửng tưởng con «hy sinh» chịu sống cần kiệm để gửi tiền về cho mẹ già (Hy Sinh) cho đến người con gái già héo hắt cả đời vì mẹ và tìm không ra lẽ sống lúc mẹ chết đi; từ người mẹ điên loạn vì mất con trên đường vượt biển (Lạc) cho đến người phụ nữ trí thức ngoại tình trầm mình xuống sông Seine chẳng khác nào nhân vật của Tolstoï trong Anna Karénine (Nhân Chứng).

Tác nhân của bao nhiêu thảm kịch ấy có nhiều: Gần nhất là đàn ông. Dưới ngòi bút của Miêng, bọn đàn ông đều lố bịch, giả dối, ngoại tình như máy, và vô tâm trước những đau khổ họ gây ra cho vợ con. Thử đọc những truyện ngắn như Ai Thương, Nhân Chứng, Nghịch Cảnh, N.Y., Ỡm Ờ, Quá Khứ. Truyện nào cũng khiến giới mày râu phải xấu hổ.

A tòng với bọn đàn ông là chế độ Cộng Sản (như trong các truyện Ðiêu Thuyền, Cái Giếng và Ðịnh Mệnh). Có nhiều truyện mang dáng dấp những bi kịch Hy lạp (Quá Khứ, Nghịch Cảnh, Nhân Chứng). Trong cơn lốc cuồng nộ thảm khốc là bối cảnh thông thường của truyện ngắn Miêng, nhân vật nào cũng bị chấn thương, mê sảng, điên dại, hãi hùng. Tôi nghĩ chưa có nhà văn nữ Việt Nam nào dựng một không khí tiểu thuyết thảm khốc như thế, trước Miêng. Chị đẩy nhân vật tới tận cùng của mọi thử thách, không cho những nhân vật cùng giới tính của chị được sống cuộc đời bình thường. Miêng thích những mẫu đời dị thường, những hoàn cảnh cực đoan.

Về lối viết: Tác giả tự làm khó mình. Tôi có cảm tưởng Miêng muốn tự thử thách mình khi chọn nhiều mẫu sống, nhiều mẫu nhân vật, nhiều mẫu bối cảnh khác nhau để viết truyện. Chị bắt đầu viết vào lứa tuổi không còn đem đời mình làm mẫu cho bao nhiêu tác phẩm mang dáng tự truyện. nhưng cũng chưa tới lứa tuổi viết hồi ký hay di chúc. Tạm gọi là những nhà văn có tác phẩm đầu tay ở tuổi trung niên, một hiện tượng đặc thù của văn chương hải ngoại.

Ở vào tuổi đó, tích lũy của kinh nghiệm sống (nhất là kinh nghiệm qua một thời tao loạn khốc liệt như Việt Nam nửa thế kỷ qua), cộng với kiến thức, đã khiến cho những nhà văn trung niên của hải ngoại có một cách viết đầy tự tín. Họ đã qua cái tuổi mê mình, và biết nhìn tới những thân phận khác để thấy cuộc đời đa diện và mênh mông hơn mình tưởng. Nhân vật truyện thường ở ngôi thứ ba. Trong tập truyện của Miêng, đôi khi nhân vật cũng xưng «tôi», nhưng qua tình tiết diễn tiến câu chuyện, ai cũng thấy nhân vật ở ngôi thứ nhất ấy không phải là tác giả.

Tuổi đời và kiến thức cũng giúp cho những nhà văn trung niên tránh được cái thói mù quáng chạy theo thời trang, những kiểu làm dáng vụ hình thức, ưa biểu diễn bằng những quái chiêu gây sốc. Giống như những người viết cùng thế hệ mình, Miêng có lối viết chừng mực, trầm tĩnh, đơn giản. Chị không vặn vẹo chữ nghĩa bắt chúng làm trò phù thủy . Chị cũng không trấn áp bạn đọc bằng những thủ pháp gây sững sờ. Chị viết truyện như một đạo diễn tài năng và tự tin, nắm vững bí quyết của nghề đến nỗi truyện cứ diễn tiến trôi chảy tự nhiên, cho đến một lúc bất ngờ nhất, từ trong tự nhiên, bi kịch xuất đầu lộ diện, và đời sống tưởng là bình thường mới trở lại chân tướng uyên nguyên đầy bất thường của nó.

Trong 21 truyện ngắn tác giả viết từ 1992 đến 1999, những truyện dài trên mười trang (như Cái Giếng, Ðiêu Thuyền, Hiếu Thảo, Lạc, Nhân Chứng, Nghịch Cảnh, Quá Khứ, Quan Phu) được viết theo một kỹ thuật khác với lối viết những truyện ngắn dưới mười trang. Trong những truyện ngắn dài, Miêng có tài sắp xếp các chi tiết để câu chuyện có được hai ưu điểm rất ít người viết văn đạt được cùng lúc: Sự lôi cuốn hấp dẫn nhờ tình tiết và sự tinh tế trong tâm lý và tư tưởng.

Thử đọc một truyện tiêu biểu thuộc loại này: Truyện Nhân Chứng.

Tình tiết câu chuyện vô cùng rắc rối, phức tạp. Một phụ nữ thuộc tầng lớp trí thức ở Pháp ngoại tình với chồng người bạn thân của mình. Người đàn ông ngoại tình kia lại lăng nhăng với một phụ nữ trẻ hơn, tệ hơn nữa, lập mưu giết vợ để thong dong chung sống với người phụ nữ trẻ đó. Vụ án mạng chắc chắn đã làm rúng động dư luận, nhất là khi người đàn bà ngoại tình ra trước toà thú nhận mình ngoại tình để cho hung thủ được trắng án, dù biết trước thú nhận như thế chồng con sẽ xa lánh. Gia đình tan nát, nhân vật chính tìm gặp tình nhân, bắt gặp anh ta đang ân ái với người khác. Tuyệt vọng, nhân vật chính tự trầm ở sông Seine.

Cái kết của truyện cũng giống như cái kết bi thảm trong tiểu thuyết Anna Karénine của Léon Tolstoï. Văn hào Nga viết hẳn một bộ tiểu thuyết dài 500 trang mới diễn tả hết bi kịch phức tạp của Anna. Cũng bao nhiêu tình tiết rối rắm, bao nhiêu diễn biến tâm lý phức tạp của một vụ ngoại tình và án mạng, Miêng chỉ cần 15 trang. Trong mỗi chi tiết, mỗi câu, đều hàm chứa một bi kịch lớn; nhưng điều đó không hề khiến cho truyện nặng nề. Không khí truyện của Miêng rất gần với không khí truyện dài của Faulkner, và truyện ngắn của Tennessee Williams (ít người biết tới truyện ngắn của kịch tác gia này, chỉ biết những vỡ kịch của ông). Nhưng hình thức truyện ngắn của Miêng lại giản dị và nhiều chất thơ, giống như những huyền truyện của nhà văn Ý Dino Buzzati.

Nhưng theo tôi, tài năng của Miêng thể hiện rõ nhất ở những truyện thật ngắn. Tác giả có biệt tài nén những ngọn sóng ngầm, những điên loạn bi đát vào trong một lớp vỏ «tưởng như êm ả bình thường». Trong những truyện này, chất bi đát được gói kín khéo léo, để chờ đến vài câu chót, khói thuốc nổ ấy bùng lên trước mắt độc giả. Ðọc những truyện thật ngắn này của Miêng, tôi có cảm tưởng đang nghe một điệu nhạc blue của một nhạc công da đen: anh thổi saxophone diễn tả nỗi cơ cực của những người nô lệ cùng màu da với anh, và đến chỗ thống thiết nhất, anh lấy tay bịt miệng kèn lại. Âm thanh uất nghẹn càng khiến bi kịch nô lệ thống thiết hơn. Truyện thật ngắn «Biển» là thành công trọn vẹn của Miêng trong thể loại này.

Trong bài Tựa, Nguyễn Nam Trân đã rất tinh nhạy khi nhận ra được không khí đầy «âm thanh và cuồng nộ» trong văn của Miêng. Nguyễn Nam Trân viết: «Yêu, ghét, đam mê, phản bội, thoái hoá, biến chất… hay lẩn trốn vào trong cơn điên dại như lẩn trốn vào cõi tĩnh lặng của con mắt một trận bão. Ðiên dại, hôn mê, khắc khoải là bầu không khí bao trùm lên một nỗi đau thời thế».

Không khí ấy thật hiếm hoi trong văn nghiệp các nhà văn nữ Việt Nam xưa nay.



____________________ o0o ____________________


Trái tim của Miêng và nỗi bất hạnh của người Phụ Nữ

Ðoàn Nhã Văn




Ðến với Miêng, người đọc bắt gặp ngay cái tâm bão của bà: Dựng lại những bất hạnh của người phụ nữ trươc dông cuồng của thời cuộc, trước sóng gió của lòng người. Tại sao không là hạnh phúc, mà lại là những nỗi bất hạnh, những bi kịch lớn? Bước vào từng truyện ngắn, người đọc sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình.

Ðã có nhiều chục ngàn trang sách để viết về phái nam trong thời chiến, sau cuộc chiến, và trên xứ người. Số trang sách dành cho những người phụ nữ cùng thời, quả có hiếm, nếu không muốn nói là quá ít ỏi. Thiếu bình đẳng chăng? Thật ra không phải thế. Có lẽ những gì mà người đàn ông trải qua, thường dễ nhận biết. Họ chiến đấu ở sa trường; họ đổ máu vì đất nước; họ bị giam cầm hàng loạt sau 1975. Hình ảnh họ bám vào từng tháng ngày lịch sử. Nỗi mất mát của họ dễ nhận diện. Còn ở người phụ nữ, nỗi đau dai dẳng không kém nhưng âm thầm hơn. Vết thương của họ cũng sưng tấy lên với đổi dời của thời cuộc, với bi đát của quê hương. Bản tính của người phụ nữ là chịu đựng, nên cái đau của họ ít lộ ra bên ngoài. Nhưng cũng có lẽ, đi sâu vào tâm lý người phụ nữ, chạm với niềm thống khổ tận cùng của họ, đòi hỏi một sự kiên nhẫn và một cảm thông lớn, rất lớn. Vì vậy không có nhiều tác phẩm viết về cái «đau» của họ. Chưa bao giờ có một tập hợp nhiều mảnh đời khác nhau, mà mỗi mảnh đời là một bi kịch, một bất hạnh lớn, như ở Miêng. Bà không những chỉ chụp lại những bức tranh thời thế, mà bà đã thổi vào đó những hơi thở ấm của cuộc đời, trái tim bà cùng đập những nhịp chậm, nhanh ở những giây phaút bình thường hay căng thẳng cùng nhân vật, vì thế đã tạo nên những truyện ngắn đầy sức sống. Qua những truyện ngắn của bà, ngoài một tấm lòng, người đọc còn thấy ánh lên những nét tài hoa.

Chân dung của những bà cụ, những người mẹ già, hiện đều và rất rõ nét trong truyện của Miêng. Mà tại sao lại phải kể chuyện về các cụ? Tôi nghĩ, đó cũng chính là câu hỏi đã chất vấn và thôi thúc Miêng trong nhiều khoảng thời gian khác nhau. Có thể đã lặp đi, lặp lại nhiều lần.

Theo vòng quay của một đời người: sinh-lão-bệnh-tử, thì các cụ đã bước vào giai đoạn: Lão, bệnh. Và dĩ nhiên, chuyện gần đất xa trời chỉ là chuyện phải đến, và có thể đến bất cứ lúc nào. Hình ảnh hôm nay của các cụ cũng là hình ảnh của chúng ta trong những năm dài sắp đến. Ðó chính là những tấm gương, sống thực nhất, rõ ràng nhất của cuộc đời. Mà cuộc đời vốn đa dạng, nên hình ảnh các cụ đã được Miêng vẽ lại dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Mỗi bức chân dung chứa đựng những ưu tư, những dằn vặt, những ám ảnh, những dồn nén, những cô đơn, những giông tố, v.v…, và tất cả những điều vừa nói, đã gom lại làm thành những cơn sóng dữ, phủ lên cuộc đời của họ. Rồi các cụ, lan rộng sang những người phụ nữ trẻ, từ trong nước, ra đến từng ngóc ngách bên ngoài hình cong chữ S. Ở bất cứ một nơi nào, người đọc cũng bắt gặp những nỗi bất hạnh nghiệt ngã của họ. Ở trong nước, họ tất bật, ngược xuôi với cuộc sống. Chạy chọt từng miếng cơm manh áo cho con. Lo cho chồng những tháng ngày cơ cực sau cuộc đổi đời bi thảm. Vết thương của họ không là những vết thương ngoài da, mà là những vết thương cắt sâu lút đến tận tâm khảm. Họ bị lường gạt từ vật chất đến tinh thần. Nhìn lại giọt máu rơi trong bụng mình, lòng họ quặn lại nhưng vẫn rộng mở để có thể tha thứ cho kẻ hại mình. «Cô hài lòng với quyết định của mình. Ờ, cho dẫu hắn đối với cô không chân thật, nhưng cô tha thiết gì đến việc hắn ngồi tù? Thôi thì, thêm một lần, cô nhắm mắt hy sinh cho cái gì cao cả hơn là cái tự ái căm hờn thường tình của con người. Cô đi bãi nại cho hắn được ra về» (trang 163). Ðến một lúc nào đó, sức người không còn chịu đựng được nữa, sinh ra quẫn trí. «Chị bước đi với bước chân vô hồn. Cũng không phải lẩn đầu tiên trong đời hai bàn chân đong đưa chị vào nỗi u mê vô định như vậy, nhưng lần này quả thực là chị cứ như chiếc lá khô để cơn gió mặc tình cuốn đi lơ lững ngập ngừng» (trang 65). Sống trên chính quê hương mình không được, cách duy nhất là ra đi, dù trăm ngàn cay đắng đang chập chờn phía trước. Trên đường vượt thoát, biết bao người vợ, người mẹ bỏ mình trên biển cả: «Có, cô y tá đưa hết giấy má thư từ của ông ấy cho em xem… Em đọc rồi, vợ con đều chết trên biển khi vượt biên» (trang 19, 20). Cả một trời dông bão, cả một biển mênh mông đen ngòm, cả một không gian lạnh ngắt; cộng với cướp biển, hải tặc; tất cả hùa vào nhau, cướp đi bao sinh mạng. Rồi trên xứ người giá buốt: «Tôi đi theo người đàn ông thứ nhất vượt biên. Tới Pháp, anh bảo em triệt sản đi, anh không muốn có con nữa. Chẳng biết anh nói gì với bịnh viện. Người ta đưa tôi lên bàn mổ rồi hai tuần sau thả về. Ba năm sau anh bảo lãnh vợ con qua» (trang 18). Dĩ nhiên kết quả của những cuộc tình như vầy xảy ra như thế nào, không cần dài dòng, người đọc có thể đoán được.

Người phụ nữ không chỉ đối diện với những con sóng bạc đầu của lịch sử, mà họ còn phải chịu đựng những nghịch cảnh bắt nguồn từ những tập quán lâu đời của xã hội. Rõ ràng nhất và sống động nhất là hình ảnh của chị Thảo trong truyện ngắn Hiếu Thảo. Ở đây, khi bậc cha mẹ quyết định hết mọi thứ cho con cái, điều vẫn thấy trong gia đình người Á Đông, dù rằng con cái đã trưởng thành, đã tạo ra những bi kịch lớn cho con mình. Khi con cái không thể quyết định theo ý mình, kết quả là họ chỉ như một chiếc bóng đeo đuổi bên cạnh thế hệ trước. Ðời họ tiếp nối từ sự lỡ làng này đến những mất mát nọ. Như chị Thảo trong truyện, khi ở tuổi yêu đương thì cha mẹ từ chối lời cầu hôn của người yêu vì không môn đăng hộ đối. Khi bước vào lớp tuổi «lỡ cỡ», cha mẹ lại một lần nữa tự quyết định lấy cho chị «Mày muốn thì cứ đi, chứ sống nhờ vào rể là tao không đi» . Khi đến đường cùng thì «Bây giờ nếu có thằng nào muốn dẫn con Thảo đi ngoại quốc, tao cũng cho đi. Người Miên cũng được» (trang 104). Cuộc đời đâu phải ai cũng ngồi đó mà chờ đợi chị Thảo. Vì thế, chị với mẹ mình như hình với bóng. Khi bà cụ mất đi, đời chị không còn gì nữa, con người hoá điên rồ. «Chị Thảo chà xát phiến đá trên mộ mẹ với tất cả sức lực của chị. Chị chà với vẻ khẩn trương, miệng lẩm bẩm người ta bảo chà khô mới bóng, người ta bảo chà khô mới bóng. Chị có hình ảnh của người đang lên đồng. Mặt võ vàng, buồn rười rượi, mắt ráo hoảnh khô cứng trước cái nhìn lúc nào cũng ngơ ngác vô định, nhưng miệng luôn luôn mấp máy nói chuyện với ai. Trông chị như miếng giẻ khô nhúng nước» (trang 101).

Ðây là một bi kịch lớn của người Á Đông, và nhất là người Việt Nam.

Nhìn qua lăng kính cuộc đời, trước hết, Miêng sống và thở với nhân vật của bà trong những giai đoạn khắc nghiệt của đất nước. Giữa những gọng kìm lịch sử, họ là những người kém may mắn để phải đối đầu với bão dông. Bão dông không chỉ ở thời cuộc, mà còn nằm trong lòng người. Khi bão dông gây ra bởi những người cùng một màu da, thì sức kinh phá của nó khó mà tưởng tượng nổi. Hậu quả của nó là những vết sẹo ngàn đời trong tâm khảm của những người phụ nữ Việt Nam.

Thứ đến, Miêng không chỉ dựng nên bi kịch, bà còn đưa ra một thách đố lớn: làm sao giải quyết được những tồn đọng ngàn năm, những lớp rễ xơ cứng đã dính chặt vào ý nghĩ của người Việt chúng ta. Dù rằng bà không viết ra từng lời, từng chữ rạch ròi như vậy, nhưng người đọc vẫn thấy được điều này nằm giữa những dòng chữ của bà. Dĩ nhiên, mỗi người có một cách đối diện và giải quyết khác nhau, còn nhà văn, mục đích duy nhất của họ là gợi lại, mở ra những thách đố này cho cuộc đời, cho mỗi người đọc. Thách đố này không phải chỉ cho một thế hệ, mà cho nhiều thế hệ nối tiếp nhau.

Nhìn qua lăng kính nghệ thuật, Miêng là một tác phẩm đẹp, rất đẹp.

Trước tiên là góc cạnh tương phản. Nghĩa là, dùng hình ảnh này để bật lên một hình ảnh khác, một suy nghĩ khác. Nói rõ hơn, «suy nghĩ khác» đó chính là điều bà muốn gởi gắm đến người đọc. Bà dùng niềm vui để tả nỗi buồn; bà vẽ hồn nhiên để dựng nên sóng gió. Ðây là nghệ thuật. Không, đây là tầng cao của nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Hy Sinh, sau khi một người lính nằm xuống cho quê hương, tin buồn được báo cho gia đình hay, vũ trụ như ngừng lại, cảnh vật không còn êm đềm như hằng ngày, mà có cái gì như dấy lên, xoá nhoà đi những nét thường tình. Cái gì đó chính là nỗi dằn vặt của người đi báo tin. Ðiều không bình thường là hình ảnh bà mẹ hình như chưa hiểu trọn nghĩa hai chữ hy sinh, mà ngược lại cứ tưởng con mình chịu khó cực để gởi về cho bà. «Tui biếc mà. Thằng con tui bao giờ cũng hy sinh lắm. Tiềng nữa? Ðó, hễ có tiềng là nó cho tui liềng hà. Tội nghiệp, nó không giữ lại, nhằm khi gió máy» (trang 124). Chẳng thà thấy bà mẹ khóc lóc thảm thiết nhu vẫn thường thấy hàng ngày, người làm nhiệm vụ báo tin có lẽ đỡ thấy bứt rứt hơn, đỡ đau xót hơn khi ra về. Ðằng này, người mẹ cứ dửng dưng, cứ như vui sướng. Ðằng sau cái ngô nghê của bà là cả một trời đổ vỡ, đớn đau.

Còn nữa, bà dùng hình ảnh bất thường để nhắm đến cái bình thường, và ngược lại. Ngay như trong quan hệ yêu đương, ân ái chẳng hạn. Với người Việt Nam, chuyện đồng tính luyến ái là chuyện «bất thường». Nó nằm ngoài cái hàng rào suy nghĩ của hầu hết người Việt Nam. Và dĩ nhiên, đến hôm nay, con số chấp nhận chuyện này quả là còn quá nhỏ. Nhưng với người ngoại quốc, nhất là các quốc gia tiên tiến, chuyện này như là một bình thường. Vậy nếu đứng bên ngoài mà nhìn vào, phải chăng ta còn có những suy nghĩ «bất thường»? Bình thường và bất thường chỉ cách nhau có một sát na. Bà không đi hết; chỉ giữa chừng rồi dừng lại, để người đọc tự nhận ra cái bình thường và bất thường dưới nhãn quan của mình. Chính sự lấp lửng tạo nên những ưu tư lớn nơi người đọc.

«Ðêm đầu tôi nhường giường cho chị. Ðêm hai chị bảo tôi cùng nằm, âu yếm vuốt tóc tôi. Ðêm ba giữa đêm tôi thức giấc, mơ hồ cảm giác tay anh sờ soạng khắp người. Ðêm tư tôi bẽn lẽn như cô dâu mới về với chồng. Ðêm năm nhớ lời ngoại dặn: Đứa nào nói thương thì theo nó đi, đừng hòng ai mang trầu rượu» (trang 18).

Rồi bà dùng cái quê mùa, đôn hậu, cái chơn chất, thật thà trong một bà cụ, để bật lên tấm lòng trong suốt, mênh mông của những người mẹ. Và điều này đã tạo nên những xúc động lớn.

- Bà già muốn mua vé đi đâu?

- Tui đi thăm con tui.

Chữ «tui» hơi kéo dài như bày tỏ quyền sở hữu thiêng liêng khó ai chiếm đoạt.

- Ờ thì bà đi thăm con hay thăm bồ gì cũng được, hễ còn chỗ thì tui bán. Con bà ở đâu?

- La Cu La gì đó.

Người bán vé nhay mắt:

- La Cu la dái.

Nhiều tiếng cười nổi lên. Bà cụ có vẻ quýnh, nhếch mép ngô nghê. Người bán vé dịu giọng:

- Thôi được, la dái để lần sau. lần này tui bán cho bà đi La Cu. Mấy người?

- Tui đi mình ênh. (trang 120).

Phương thức dùng hinh ảnh tương phản có từ lâu, lâu lắm. Nhưng sử dụng trong văn chương, không phải dễ dàng. Nó đòi hỏi một nhà văn không những giàu sáng tạo mà phải tôi luyện trong chữ nghĩa. Có tôi luyện đủ lửa, có gạn lọc tới độ chín mùi, thì hình ảnh sử dụng mới sắc sảo, tự nó đủ sức làm bật lên điều mình muốn nói, mà không cần dài dòng dẫn giải, thuyết minh.

Phương pháp này là một trong những phương pháp mà Kim Thánh Thán gọi là phép vẽ mây nẩy trăng. Muốn trăng sáng, đẹp, hãy vẽ thêm mây. Trăng đẹp hay không là tùy vào khả năng người vẽ. Khả năng thấp: mây che trăng. Khả năng vừa: trăng chưa đủ sáng. Khả năng thượng thừa, người thưởng ngoạn nhìn mây, thấy sự rực rỡ của ánh trăng vàng. Và Miêng là một rong những hoạ sĩ cao tay trong phép vẽ mây nẩy trăng này.

Ở một khía cạnh khác người đọc cũng thấy cái rất riêng của bà. Ðó là vấn đề phục bút. Ngón nghề phục bút là một trong những phương pháp nghệ thuật khó sử dụng. Phục bút là sử dụng lại nét bút trước đó, hình ảnh trước đó, hay chi tiết trước đó thêm một lần nữa. Mà chính ở lần thứ hai này, dù tác giả không nói hết lời, dù người viết có bỏ lửng lơ, người đọc vẫn liên tưởng đến, vẫn nhận thức được việc gì đang xảy ra. Thử đọc lại một truyện ngắn của bà, truyện Nhân Chứng.

Cả hai đều có gia đình. Hai người gặp nhau ở phòng mạch của người đàn ông. Họ bắt đều lén lút đi lại với nhau sau đó. Chiếc giường dành cho bệnh nhân cũng chính là nơi hai người trao thân gửi phận. «Chúng tôi cùng nằm bên nhau, nhưng không úp mặt vào tường, mà úp mặt vào nhau để nghe tiếng thở, tiếng tim đập mạnh và tiếng lòng thương yêu mời mọc. Lần đầu tiên thấy tôi hốt hoảng vì khi ra về cửa vẫn mở toang, anh cười tin tưởng:

- Không sao đâu, không hẹn thì chẳng ma nào đến. Nếu ngại thì em nhớ đóng. Ừ, anh vẫn có thói quen không đóng cửa phòng ngoài (trang 139-140).

Rồi sau đó người đàn ông bị đưa ra trước vành móng ngựa vì bị tình nghi giết vợ mình. Người đàn bà sau những dằn co dữ dội trong nội tâm, cuối cùng bất chấp mọi hàng rào ngăn cản, đã ra làm chứng để minh oan cho ông vì mang suy nghĩ: Có thể ông đã vì bà mà âm mưu giết vợ. Sau đó, bà bị gia đình xa lánh. Nhưng điều quan trọng dẫn đến chỗ tuyệt vọng, rồi cuối cùng là cái chết của bà lại là một việc khác. Người đàn ông bay bướm này có cô tình nhân khác, và họ cũng thân mật trên giường bệnh trong phòng mạch của ông ta, như chính bà và ông đã từng. Trong một lần họ bên nhau, «Có tiếng đóng cửa làm cô gái giật mình hỏi cái gì vậy anh. Anh khoác áo ra xem rồi trở vào trả lời không có gì, chắc gió hoặc đứa bé nào chơi nghịch đóng cửa phòng ngoài». Nhưng sau đó, khi hay tin bà tự vẫn, người đàn ông mới biết nguyên nhân đưa đến cái chết của bà. Ðó chính là thói quen của hắn «Ừ, anh vẫn có thói quen không đóng cửa phòng ngoài» (trang 153). Câu chuyện kết thúc ở đó.

Cái gân guốc của truyện ngắn nằm ở nơi bỏ lửng. Chỉ có tiếng dập cửa, và thói quen của gã đàn ông được nhắc đến. Cái thói quen của gã đã từng làm bà hốt hoảng trong lần đầu ân ái. Ðây là nghệ thuật phục bút. Dù bà bỏ lửng nhưng người đọc vẫn đi suốt đến kết cục của bí ẩn. Chính cái thói quen của hắn: Không đóng cửa phòng ngoài, đã tạo cơ hội cho bà thấy hết mặt trái của gã đàn ông đằng sau khuôn mặt trí thức và lối nói chuyện uyên bác của hắn. Người đàn bà thất vọng trước sự giả dối của gã đàn ông, người mà mình quyết định dứt bỏ mọi thứ kể cả hạnh phúc mong manh của gia đình để bênh vực cho hắn. Giờ thì hắn ôm ấp một người đàn bà khác. Khi sự thực phơi bày, bà như đi vào ngõ cụt. Vì thế bà tự vẫn. Lối phục bút của Miêng là một cách diễn đạt tuyệt vời trong văn chương: không nói gì hết, nhưng lại là nói tất cả.

Ở những truyện thật ngắn, Miêng dựng nên những cốt truyện đơn giản nhưng kết thúc bất ngờ. Nỗi bất ngờ kéo người đọc trở về với thực tại. Sống với thực tại, chứ không ngủ mê trong tiểu thuyết. Bởi cuộc đời luôn là một chuỗi thay đổi bất ngờ. Chính vì thế, không dễ dàng đoán được suy nghĩ, tâm trạng, hay hành động của người chung quanh, có khi là người thân quen của mình. Ở kết cục bất ngờ, truyện ngắn như đẩy một cánh cửa, mở ra một chiều hướng khác, tạo nên những bầu không khí mới, khắc một dấu ấn đáng nhớ trong lòng độc giả.

Ở truyện ngắn Ai Thương, dấu chấm hết hạ xuống đã kéo theo sự ngạc nhiên mang không khí vui vui, thì ngược lại ở truyện Biển, kết cuộc đầy cảm động. Ðiều bất ngờ là người đàn ông trút hơi thở trong tay một người đàn bà xa lạ, mà trong cơn đồng thiếp ông cứ tưởng là vợ mình. Ở truyện Trăn Trối, cái so le của cuộc đời, tạo nên sự trộn lẫn vừa cay đắng bờ môi, vừa cười ra nước mắt. Khi nguời cha sắp lià đời, đang trăn trối lại những điều tâm huyết với con trai mình, và ông tiếc nuối đã không dạy con văn hoá Việt. Ông buồn vì lúc ông còn mạnh khoẻ, chính ông đã đẩy nó ngày càng đi xa ông hơn, bởi ông muốn nó có vợ, có con để ông có cháu, có người tiếp tục mang cái họ của ông. Nhưng ngược lại, vợ nó lại là một nguời không bình thường, «cô» ấy là một gã con trai! Rồi không kịp nữa, dù là lời cuối cùng với đứa con trai, ông ra đi trong sự nuối tiếc của chính mình. Vừa lúc đó tiếng điện thoại reo vang. Người vợ tiếp chuyện điện thoại, mới vỡ lẽ rằng: Người gọi cho chồng mình không phải để chia sẻ hay cảm thông, mà là nhắc đến một điều hết sức trái khoáy trong hoàn cảnh này.

«A-lô… Vâng… A chào anh… Ô cám ơn anh. Tôi vẫn thường nghe nhà tôi nói về quyển sách ấy… Vâng, anh ấy rất cần… Vâng, nhưng bây giờ thì trễ quá rồi. Cám ơn anh nhiều… Vâng… Xin chào anh » (trang 224).

Miêng sắp xếp bất ngờ trong một hoàn cảnh không thể ngờ được một cách hoàn hảo. Ôi, cay đắng của cuộc đời.

Trong hai mươi mốt truyện ngắn, mỗi truyện mang một dấu ấn khác nhau, một góc cạnh riêng biệt. Trong số này có những truyện ngắn sẽ ở lại với người đọc lâu dài như Biển, Hy Sinh, Ðiêu Thuyền, Nhân Chứng.

Hãy lấy Biển làm một minh chứng.

Truyện ngắn Biển chứa nhiều điều đáng suy ngẫm trong cuộc sống. Khi đọc xong, người đọc cứ cảm thấy bàng hoàng. Người đọc bị cuốn hút từ chữ đầu đến chữ cuối, và nhất là kết cục bất ngờ. Cái dư âm như ngân xa, xa, xa mãi trước tấm lòng và cử chỉ của người đàn bà vô danh, mang lại niềm vui cuối cùng cho người đàn ông bất hạnh, mà vợ con ông đã bỏ mình trên biển cả khi vượt thoát.

«Chị khẽ khàng đặt tay lên ngực anh. Bỗng bạo dạn hơn, chị choàng qua, siết vòng tay lại. Nụ cười ngây ngô trên môi anh kéo dài vô cùng:

- Con đâu, em?

- Con… đang ngủ. Anh cũng ráng ngủ một chút đi cho khoẻ.

- Em nè, vợ chồng, có, những lúc, cơm không, lành, canh không, ngọt, anh có, lỡ, giận la em, cái gì, em bỏ, qua, cho anh, nghe, đừng, giận, bỏ anh, tội, nghiệp, cái chính, là, biết, anh thương, em vô, cùng, nghe em, đời anh, chỉ, có em, và, con ...

Chị khóc:

- Anh đừng nghĩ quẩn quanh nữa. Em không giận anh đâu. Em cũng... thương anh lắm!

Hai người y tá đẩy băng ca đi. Ngang qua cửa sổ, tấm ra pha lẫn vào vùng tuyết ngoài kia.

Bước vào ca-bin, chị để cạc vào máy điện thoại, bấm số.

- Anh hả? Em đây ... Trẻ nhỏ dậy hết chưa? ... Xà-va anh à. Một người đồng bào ... (chị thở dài) Không, dĩ nhiên là không bà con gì với mình cả. Khi em tới thì tối rồi và coi bộ ông ta lẫn lộn hết, tưởng em là vợ ... Ơ thì anh coi, cứ Nguyễn Thị Ngọc gì gì có vần "ương" theo sau mà chả là em. Mình đã nhận bao nhiêu thứ rồi ... Có, cô y tá đưa hết giấy má thư từ của ông ấy cho em ... Em đọc rồi, vợ con đều chết biển khi vượt biên, chỉ còn ông ta sống sót với mấy người thôi ... (chị khóc) ... Xong rồi anh ạ ... Vâng, lúc năm giờ sáng, trong tay em ...” (trang 21).

Chưa đầy ba trang giấy, không tới 700 con chữ, nhưng chứa đựng nhiều nhân vật, chuyên chở nhiều điều muốn nói. Ngắn, nhưng là cả bao phần đời góp lại. Từng mảng lịch sử được dựng nên. Những xáo trộn trong đời vỡ ra. Những nổi trôi cuối đời cuốn xoắn vào nhau, tạo nên một sức hút lớn, kéo những mất mát của một đời người càng dài thêm hun hút.

Một truyện thật ngắn, chứa hết những tấm lòng, mang đủ những ước mơ, sống lại những hạnh phúc. Nhiều ý tưởng được cài đặt khéo léo. Nếu không là một dày dạn từng trải, một tinh tế và cảm thông, một góp nhặt và đãi lọc, chắc chắn không bao giờ dựng được.

Theo Nguyễn Công Hoan, “truyện là bịa y như thật”. Thật? Ở đây ông muốn nói truyện viết như thế nào mà lôi kéo độc giả. Ðộc giả đọc xong cứ như thấy nhân vật đó ở gần gũi với chúng ta, thấy hình ảnh đó như sờ được trong đời sống, thấy ý truyện đó sao mà giống với những gì mình thấy, mình nghĩ quá. Ðó là thật. Trong khi đó, ngược lại, có những chuyện thật ngoài đời, nhưng khi đưa nguyên bản vào truyện, nó không còn “thật” nữa, nhân vật có thể cứng đơ hay ý truyện cứ gập gềnh, chưa đủ sức thuyết phục người đọc. Hoặc nếu không là chuyện thật thì ắt là bịa, nhưng bịa chưa tới nơi tới chốn. Ðiều này có thể thấy ở Miêng trong một truyện ngắn của bà, truyện “Ỡm Ờ”. Khi đọc xong truyện này, ta có cảm tưởng là khó có thể có một nhân vật nữ và những cuộc tình như vậy nối kết nhau bên cạnh cô trong cuộc sống này. Miêng đào bới sâu vào những người tình của nhân vật chính. Bà đi từ tánh tình mỗi người. Bà thông thạo nghề nghiệp cả ba trong bọn họ. Thậm chí bà còn len lỏi vào tận triết lý sống của từng nhân vật. Mỗi một chi tiết có thể “thật”. Vâng, có thể. Nhưng nhiều cái giống “thật” được đặt ngay ngắn bên nhau vẫn chưa đủ để tạo nên một cái “thật” trong tổng thể. Mà đây mới là điều cần thiết của truyện ngắn. Nếu bắt buộc phải làm sự so sánh, phải xếp truyện này với những truyện còn lại, thì có lẽ Ỡm Ờ đứng xa, khá xa so với những truyện ngắn khác trong cùng tập truyện ngắn của Miêng.

Tổng quát, Miêng đã dựng nên những mẫu nhân vật tuy bình thường nhưng đầy những giá trị điển hình. Bà viết ít lời, nhưng mỗi chữ, mỗi ý đều mang trọng vẹn vai trò của nó: Dẫn người đọc vào từng mắt xích của những bất hạnh, những chông gai, những mất mát, những nổi trôi, những tuyệt vọng, và cả những hy vọng của từng nhân vật. Nhiều mắt xích nối liền với nhau tạo nên những chuỗi bất hạnh lớn mà người phụ nữ Việt Nam của hậu bán thế kỷ hai mươi phải gánh chịu. Mỗi một chặng đường họ đi qua, đều dấy lên những nỗi đau. Mỗi bước chân họ bước tới, đều dồn lại những niềm thống khổ. Như một số phận, như một định mệnh, những niềm đau, những bất hạnh này trải dài trong từng truyện ngắn của Miêng. Nó lồ lộ trước mắt, nó lẩn quẩn bên mình, người đọc cảm giác như mình sờ được vào từng gai góc ấy.

Miêng không cố ý tạo nên những tiếng kêu dậy đất, vang động đời thường. Bà chia sẻ với người đọc một giọng điệu man mác, trầm buồn. Chính điều này đã tạo nên nỗi da diết và sự thấm thía trong mỗi truyện ngắn của bà.

Dù là bi kịch nhỏ trong đơn vị gia đình hay bi kịch lớn bên ngoài xã hội, Miêng đều đi đến gần như tận cùng những đổ vỡ, đau thương. Ðằng sau những bi kịch đớn đau, cuối đường những bất hạnh nghiệt ngã, bà muốn gõ cánh cửa bình an và mở ra những niềm hạnh phúc. Bởi bất hạnh càng lớn, niềm hạnh phúc mới được nhận chân càng rõ. Khổ đau có trùng trùng, niềm an lạc mới thực sự được nghiệm ra trong đời sống thường nhật. Và những người đang tận hưởng những an lạc, những hạnh phúc này, chính là chúng ta: Những độc giả của bà.


Ðoàn Nhã Văn


(tvvn.org)