Khẩu trang N95, một trong nhưng trang bị bảo hộ y tế quan trọng nhất hiện nay, đã trải qua một lịch sử từ việc phát triển và hoàn thiện kéo dài hơn một thế kỷ nay.

Thật khó mà tìm được biểu tượng nào phù hợp với đại dịch Covid-19 hiện nay hơn là chiếc mặt nạ phòng độc N95. Chiếc khẩu trang vừa bịt sát quanh mặt và có khả năng lọc đến 95% các hạt li ti trong không khí, như virus, khói độc, điều mà những loại trang thiết bị khác (như khẩu trang phẫu thuật) không thể làm được. Trang bị cứu sinh giờ đây đang trở nên thiếu hụt trên toàn cầu và nó cũng đại diện cho những thách thức khó khăn nhất mà thế giới đang phải đối mặt trong cuộc chiến với dịch Covid-19.

Vậy làm thế nào một miếng chụp bằng polymer mỏng manh như vậy lại trở thành thiết bị y tế quan trọng nhất của thế kỷ 21này, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay? Mọi chuyện bắt đầu vào năm 1910 từ một vị bác sĩ ít có tên tuổi, người muốn thế giới tránh khỏi một trong những căn bệnh tồi tệ nhất từng được biết đến.

Những thiết kế về khẩu trang đầu tiên

Theo ông Christos Lynteris, giảng viên cao cấp tại Khoa Nhân loại Xã hội học của trường Đại học Saint Andrew, Anh Quốc, đả từ rất lâu trước khi biết rằng vi khuẩn và virus có thể phát tán trong không khí và gây bệnh cho chúng ta, mọi người đã sử dụng khẩu trang che mặt nhưng không hẳn là để ngăn ngừa việc dịch bệnh lây lan.


Mặt nạ phòng bệnh dịch hạch dành cho các bác sĩ vào thế kỷ 17

Lúc đó mọi người đều quan niệm rằng các căn bệnh như dịch hạch là do chướng khí, hay khí độc bốc lên từ dưới mặt đất. Quan niệm này đã thúc đẩy việc thiết kế ra những chiếc mặt nạ phòng bệnh nổi tiếng trên khắp châu Âu vào những năm 1600. Những chiếc mặt nạ hình thon mỏ dài này mô phỏng lại mỏ chim và có 2 lỗ thở ở bên cạnh có thể đặt nhang (hoặc hương) vào đó.

Mọi người cho rằng bằng việc ngăn chuyện ngửi thấy mùi của bệnh dịch hạch, họ sẽ không bị nhiễm căn bệnh chết người này. Các bác sĩ lúc bấy giờ, những người được giao nhiệm vụ xác định dịch bệnh, sẽ đeo các mặt nạ này và đánh dấu người nhiễm bệnh bằng cách gõ gậy vào người đó.

Phải đến những năm 1870, khi các nhà khoa học hiểu biết nhiều hơn về vi khuẩn, quan niệm về chướng khí dần dần bị bác bỏ cùng với cách thiết kế kinh dị của chiếc mặt nạ phòng độc nói trên.


Bức hình mô tả sự rùng rợn của các bác sĩ về bệnh dịch hạch thời xưa

Kể từ năm 1897, các bác sĩ mới bắt đầu đeo khẩu trang phẫu thuật khi làm việc. Nhưng vào thời điểm đó, chúng không khác gì một chiếc khăn mùi soa quấn quanh mặt, và nó cũng không được thiết kế để lọc các hạt mang mầm bệnh trong không khí, ngay cả bây giờ cũng vậy. Chúng được chế tạo ra để ngăn bác sĩ không ho hoặc hắt hơi vào vết thương khi làm phẫu thuật.

Đây chính là sự khác biệt quan trọng nhất giữa khẩu trang và mặt nạ phòng độc. Đấy cũng là lý do tại sao các chuyên gia y tế rất lo lắng khi họ được hướng dẫn đeo khẩu trang phẫu thuật khi tiếp xúc với các bệnh nhân Covid-19, trong khi không có mặt nạ phòng độc. Các mặt nạ phòng độc này không chỉ được làm từ loại vật liệu khác so với khẩu trang, mà còn rất khít với gương mặt, để việc lọc không khí thở có hiệu quả tối đa.

Mặt nạ phòng độc đầu tiên khai sinh ra từ bệnh dịch và sự kỳ thị

Vào mùa thu năm 1910, một bệnh dịch bùng phát tại Mãn Châu, TQ. Vào thời điểm đó đang là một khu vực tranh chấp phức tạp giữa 2 nước Nga và TQ. Trong khi căn bệnh này gây ra tỷ lệ tử vong cao khủng khiếp, có đến "100% người nhiễm bệnh, không một ai sống sót", như ông Lynteris cho biết, nó cũng tạo ra một cuộc chạy đua về mặt khoa học. Cả Nga và TQ đều muốn chứng tỏ khả năng khoa học của mình, để từ đó đưa ra các yêu sách về chủ quyền lãnh thổ.

Phía TQ cử một bác sĩ trẻ có tên Wu Lien-the dẫn đầu các nỗ lực nghiên cứu của mình. Dù đả tốt nghiệp tại Cambridge, nhưng giữa đội ngũ đông đảo các nhà khoa học quốc tế và bác sĩ từ khắp nơi trên thế giới để tìm hiểu về căn bệnh chết người này, Wu trở nên người "hoàn toàn không quan trọng". Nhưng sau khi khám nghiệm một tử thi, Wu nhận định rằng "bệnh dịch này lây lan qua không khí, chứ không phải qua bọ chét như nhiều người nghi ngờ".


Các nhân viên y tế với khẩu trang chống dịch trong lúc bệnh viêm phổi bùng phát tại Mãn Châu năm 1910.

Với nhận định này và dựa trên những khẩu trang phẫu thuật mà anh từng thấy ở phương Tây, Wu thiết kế nên loại mặt nạ vững chãi hơn từ băng gạc và bông, có thể quấn kín quanh mặt và được bổ sung nhiều lớp vải để lọc không khí. Phát minh của ông là một bước đột phá vào lúc đó, nhưng sự đón nhận nó chỉ là những ánh mắt ngờ vực và miệt thị của các đồng nghiệp.

Lynteris cho biết: "Có một bác sĩ già nổi tiếng trong khu vực, một bác sĩ người Pháp (Gérald Mesny) … và khi Wu giải thích với bác sĩ người Pháp về giả thuyết của mình rằng bệnh dịch này là viêm phổi và lây qua không khí, ông người Pháp đã lăng mạ ông ta … theo một cách kỳ thị". "Chúng ta có thể kỳ vọng gì từ một người TQ chứ?" Và để chứng minh cho quan điểm của mình, Mesny đi vào và chăm sóc người bệnh trong bệnh viện mà không mang mặt nạ của Wu, và ông ta chết 2 ngày sau đó vì căn bệnh này".

Cho dù các bác sĩ khác trong khu vực cũng nhanh chóng phát triển loại mặt nạ riêng của mình, nhưng mặt nạ của Wu đã chiến thắng tất cả. Nó có một thiết kế tuyệt vời. Nó có thể làm bằng tay từ các vật liệu rẻ tiền và sẵn có.

Từ tháng Giêng đến tháng Hai năm 1911, việc sản xuất mặt nạ được gia tăng với tốc độ chóng mặt khi mọi người đều đeo nó. Từ các nhân viên y tế, binh lính và một số người còn đeo chúng hàng ngày nữa. Không chỉ giúp ngăn chặn lây lan bệnh dịch, những chiếc mặt nạ này còn trở thành biểu tượng của nền y học hiện đại.

Và cho đến khi dịch cúm Tây Ban Nha xuất hiện vào năm 1918, mặt nạ của Wu càng trở nên nổi tiếng hơn trong giới khoa học cũng như trong công chúng. Các công ty trên toàn thế giới tăng cường sản xuất các mặt nạ tương tự như vậy để giúp giảm bớt sự lây lan của dịch cúm kinh hoàng này.


Nhân viên xe và hành khách đeo khẩu trang trong đại dịch cúm năm 1918.

Và rồi khẩu trang N95 ra đời

Khẩu trang N95 chính là một hậu duệ từ cách thiết kế của ông Wu. Trong chiến tranh thế giới thứ I và thứ II, các nhà khoa học đã phát minh ra các loại mặt nạ lọc khí độc bao kín đầu người dùng để giúp làm sạch không khí thở. Những mặt nạ tương tự như vậy, nhưng được lót thêm cả bộ lọc sợi thủy tinh, bắt đầu được sử dụng trong ngành khai mỏ để ngăn bệnh phổi đen.

Dù có nhiều hiệu quả trong việc bảo vệ sức khỏe, nhưng chúng khá cồng kềnh và nặng nề. Lý do chính là nằm ở bộ lọc. Ngoài ra sợi thủy tinh làm cho việc hít thở khó khăn hơn và thiết kế trùm kín đầu khiến người đeo bị nóng bức. Chính vì vậy, điều này lại gây nguy hiểm cho những người làm việc trong môi trường xây dựng khi họ thường xuyên hít phải bụi amiăng nhưng lại không muốn đeo các mặt nạ này do nơi các công trường xây dựng vốn đã khá nóng.


Loại mặt nạ phòng độc sử dụng trong Thế chiến thứ I.

Vì vậy, mải đến những năm 1970, Cục Mỏ và Viện Sức khỏe và An toàn Quốc Gia đã tạo ra những tiêu chuẩn đầu tiên cho "các mặt nạ phòng độc sử dụng một lần".

Hãng 3M chính là công ty đầu tiên phát triển nên loại khẩu trang ngăn bụi N95 sử dụng một lần và được chấp thuận vào năm 1972. Thay vì dùng sợi thủy tinh, công ty tái sử dụng một công nghệ mà họ từng phát triển để làm các dải băng cứng hơn cho bộ lọc. Công ty sử dụng polymer nóng chảy và thổi nó vào các lớp sợi nhỏ để làm các sợi này trở nên cứng hơn và dùng chúng làm bộ lọc.

Do vậy, các hạt trong không khí, cho dù là vi bụi silica hay virus, khi đi qua bộ lọc này sẽ bị mắt kẹt trong mê cung các sợi cứng đó. Ngoài ra 3M còn bổ sung thêm điện tích cho lớp vật liệu lọc này, giúp hút được cả các vi hạt còn nhỏ hơn nữa về phía các sợi này. Trong khi đó, do lỗ trống giữa các sợi này khá lớn, người dùng vẫn có thể hít thở dễ dàng.

Nhưng đến một lúc nào đó, khi chỗ trống này bị những vi hạt này lấp đầy, việc hít thở sẽ khó khăn hơn. Đó là lý do tại sao khẩu trang N95 không thể dùng lâu hơn 8 tiếng mỗi lần trong môi trường có nhiều bụi. Nó vẫn lọc được khói bụi và các vi hạt sau đó, nhưng việc hít thở sẽ trở nên khó khăn hơn, và đó là lý do cho việc cần phải thay thế nó hàng ngày.


Khẩu trang N95

Và nhiều thập kỷ sau đó, khẩu trang N95 dần dần được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau trước khi nhu cầu về mặt nạ phòng độc tăng vọt vào những năm 1990 khi bênh lao kháng thuốc đột nhiên gia tăng trở lại.

Để ngăn chặn vi khuẩn lao phát tán trong không khí, khẩu trang N95 trở thành trang bị tiêu chuẩn cho nhân viên y tế, và các bác sĩ cũng bắt đầu đeo chúng để giúp đỡ các bệnh nhân lao. Tuy vậy, các mặt nạ phòng độc này cũng hiếm khi được sử dụng trong các bệnh viện ngày nay, và nhu cầu về chúng chỉ tăng vọt vào những đợt bùng phát dịch như Covid-19 hiện nay.

Còn với TQ, những mặt nạ phòng độc như thiết kế của Wu bao giờ cũng là vật rất quan trọng với đất nước này. Gần đây nhất là trong đợt bùng phát dịch bệnh SARS, người dân nước này đã phải đeo các đồ bảo vệ khuôn mặt này để ngăn chặn việc lây lan căn bệnh dịch này. Sau đó khi các thành phố như Bắc Kinh bị ô nhiễm không khí, mọi người cũng tăng cường đeo khẩu trang để giúp lọc khí độc.

Khẩu trang N95 không hoàn hảo. Nó được thiết kế để bó sát vào mặt người dùng, kể cả trẻ em hay người có râu quai nón, nhưng nếu không được gắn kín lại, nó sẽ không hoạt động tốt như lời quảng cáo. Hơn nữa, những biến thể của N95 để sử dụng trong các phòng chăm sóc đặc biệt, có nguy cơ cao lại không có van thở ra, vì vậy chúng có thể làm người sử dụng bị nóng khi đeo.

Nhưng khẩu trang N95 cũng đã có hàng trăm năm phát triển nhằm đối phó với những cuộc khủng hoảng khác nhau. Và công cuộc phát triển đó sẽ tiếp tục diễn ra kể cả khi đại dịch Covid-19 qua đi. Hãng 3M cho biết, công ty vẫn đang liên tục đánh giá lại khẩu trang N95, tinh chỉnh các bộ phận của nó, từ bộ lọc cho đến hình dáng cộng sinh học của nó.

Nikki McCullough, người đứng đầu bộ phận An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp tại hãng 3M, cho biết: "… Chúng tôi muốn chúng trông thật đơn giản để dể quan sát và dễ sử dụng. Chúng tôi vẫn luôn cải tiến công nghệ. Chúng tôi có hàng ngàn nhà khoa học tại 3M để tiếp tục nghiên cứu cải tiến cho nó".

Tham khảo Fastcompany