.

Nhà thơ kiệt xuất Nguyễn Đức Sơn
Tâm Nhiên




Thầy Tuệ Sỹ và nhà thơ Nguyễn Đức Sơn trên đồi Phương Bối
(Ảnh: Thu Nguyệt, nguồn: sangtao.org)

LTS: Bản trước của bài “Nhà Thơ Kiệt Xuất Nguyễn Đức Sơn” đã xuất hiện trên Da Màu ngày 5 tháng 11, 2013. Tác giả Tâm Nhiên, theo lời yêu cầu của nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, đã bổ sung thêm vào bài nhiều trích đoạn từ thơ được sáng tạo sau năm 1975 của thi sĩ, cùng những nhận định mới. Bản nhuận sắc dưới đây là bản thay thế cho bản trước.

Không biết từ đâu ta đến đây
Mang mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ
Sống điêu linh rồi chết đọa đày


Mấy câu thơ thời tuổi trẻ, lúc mới 23 tuổi ấy đã theo suốt cuộc đời Nguyễn Đức Sơn, một thi sĩ kiệt xuất trên bầu trời văn nghệ Việt Nam hiện đại. Rờn lạnh hoang vu một tâm hồn cô độc cô liêu khốc liệt, luôn luôn ngún cháy bên trong chiều sâu linh thức một ngọn lửa tịch mịch vô hình, thường trực đứng giữa đôi bờ sống chết giữa đỉnh cao và hố thẳm của tồn sinh bức bách ngay từ những ngày còn chạy lông bông đùa rỡn cùng sóng vàng cát trắng vu vơ dọc mấy hàng cây dương liễu xanh ngút ven bãi biển Ninh Chữ xa mù. Từ đó, từ thuở nhà thơ chào đời năm 1937 ở làng quê Dư Khánh, Thanh Hải, Ninh Thuận đến nay cũng hơn 70 năm trời đằng đẵng trôi qua rồi mà ngọn lửa tịch mịch đó vẫn còn hừng hực rực ngời như một ngọn lửa thiêng trong lòng người thi sĩ dị thường:

Tôi chỉ có lửa
Và tịch mịch
Trong người


Lửa thơ, lửa mộng, lửa tình yêu, lửa nghệ thuật hay lửa sáng tạo ấy bao giờ cũng được thi sĩ đốt lên trên dặm ngàn cuộc lữ thênh thang. Năm 1956 lúc 19 tuổi, rời làng quê Dư Khánh, tạm biệt thị xã Phan Rang ra phố biển Nha Trang theo học trường Trung học Võ Tánh một thời gian, nhà thơ thường trốn học rong chơi lêu lổng dọc ven bờ biển lồng lộng đầy gió nắng với những ý tưởng mông lung vời vợi, chơi đùa chạy đuổi bắt những vệt nắng xanh vàng rơi tan trong bọt sóng bồng bềnh lênh láng mộng rong rêu:

Nhiều khi đợi nắng chiều tan
Tôi mông lung nghĩ theo làn mây trôi
Ngày kia nếu ở trên đời
Cha tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Sinh ra tôi có làm thơ
Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi
Những đêm sao sáng đầy trời
Bỗng nhiên tôi khóc trên đồi hư không


“Sinh ra tôi có làm thơ” vì không biết làm chi hơn là làm thơ, làm một cái công việc mà chỉ có những tâm hồn vô cùng nhạy cảm, thường xuyên có sự giao cảm âm thầm thâm sâu uyên viễn với nhật nguyệt thiên địa càn khôn, với hồn thiên cổ xa xăm diệu vời mới thích thú đam mê theo công việc duy nhất của đời mình, ấy là cái việc làm thơ làm thẩn đó thôi. Nói như Tuệ Sỹ khi viết về Sơn Núi :“Sinh ra để làm thơ, đó là Định mệnh ?”

... hay như Phạm Công Thiện, một người bạn thân thiết ngày xưa với Nguyễn Đức Sơn cũng nói :

“Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”

Đích thực Nguyễn Đức Sơn là một thi sĩ kỳ tuyệt, một nhà thơ mà hồn thơ luôn tuôn trào trong huyết quản rạt rào vô hạn. Chàng “lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ” nên đi đứng ngó nhìn bất cứ sự vật trần cảnh, lạnh nóng cao thấp, trời xanh mây trắng, con người con vật chi chi cũng đều thấy thơ và thơ bàng bạc thấp thoáng, ẩn hiện lung linh, rạo rực xao xuyến ở trong máu trong hồn như vậy, khiến cho ý tình rung lên bổi hổi dâng đầy. Tuy thấy được vẻ đẹp cực kỳ của tạo vật đất trời nhưng đồng thời cũng ý thức tận cùng cái hư ảo mong manh của cuộc sống, như một lần nhà thơ thổ lộ ở trang bìa trong tập thơ Đêm nguyệt động : “Một buổi chiều trốn học lang thang trên bờ biển Nha Trang thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó đâm ra khật khùng cho đến nay.” Vậy đó, ngó nhìn đâu cũng rung động cũng thấy đẹp tuyệt vời, nhưng đẹp tựa ánh chớp như bọt nước sương rơi:

Tôi bỗng thấy mạch đời bừng chảy
Như nhựa xuân tràn lên đầu cành
Rồi tôi thấy mạch đời đang chảy
Ở trong tôi mà sao mong manh


Ý thức tức thì cái mong manh thoáng chốc của bọt nước, cái phù du hư huyễn vô thường của cuộc đời, cái lênh đênh trôi dạt của thân phận kiếp người giữa cuộc phù sinh dâu biển như thế, nhà thơ chợt thấu thị thấy bùng vỡ ra một điều chi bất ngờ như triết gia Nietzsche thấy “thượng đế đã chết” nghĩa là không có thực : “Thượng đế, sự bất tử của linh hồn, sự cứu rỗi, cõi trên kia, đó là những ý niệm rỗng tuếch mà tôi không bao giờ bận tâm đến.”* Sơn Núi cũng vậy, thấy “thượng đế đi rồi” chỉ còn đây trên mặt đất là sự có mặt đương nhiên của con người và nhà thơ tự hỏi, tự khai phá về sự hiện hữu của con người, về lẽ sống chết, về lý âm dương tự nhiên của tạo hóa. Tất cả sự hiện hữu này có ý nghĩa chi không hay chẳng có nghĩa lý gì cả hỡi trời mây vạn đại thái cổ từ thuở hồng hoang nào lạc dấu mộng sơ nguyên?:

Lênh đênh thuyền giạt xa miền
Nửa đêm bừng tỉnh man thiên một trời
Trông lên thượng đế đi rồi
Hỏi mây thái cổ con người vân vi
Lối mòn cỏ mộ xanh rì
Ngoài ra kìa chẳng có gì nữa sao
Đảo buồn thổi gió lao xao
Ngàn xưa còn tiếng thì thào biển khuya

Biển tàn khuya gõ nhịp đi về nhưng biết về đâu giữa khuya dài lê thê trong đêm tối đen ngòm mịt mù u ám của nhân loại? Vai gầy nghiêng nghiêng lệch gót chân xiêu vẹo bước theo bóng mình xơ xác qua vạn nhịp cầu ảo dị suy tư. Tuổi còn thanh niên mà cứ tưởng tượng đến ngày mái đầu bạc phơ tóc trắng, chẳng hề gì vì đường thơ mở rộng bồng phiêu liều lĩnh trên cung bậc dấn thân nhập cuộc, cho dù cũng lắm lắm hiu hắt tàn xiêu:

Biển hoang cồn lạnh tiếp chiều
Đá trơ với đá tôi liều với thơ
Áo quần hai bộ xác xơ
Quạnh hiu dù đến bạc phơ mái đầu
Nẻo xa chưa thấy nhiệm mầu
Chân còn bước vạn nhịp cầu suy tư


Suy tư, trầm tư, uyên tư là sống triết lý. Sống triết lý nói theo Nietzsche là sống cố ý, chú tâm triệt để vào một vấn đề nào đó như thiền sư nhiếp tâm miên mật vào công án tử sinh của đời mình để đốn ngộ chân lý giải thoát. Thiền là quán sát, quán chiếu tâm ý mình trong từng hơi thở từng lời nói, từng hành động từng sự việc tế nhị, thi sĩ biết tâm ý mình đang tỉnh thức hay đang mơ mộng trong giấc ngủ cô miên, biết mình đang mộng thấy bay ra ngoài trời đất càn khôn vũ trụ trùng trùng ánh phong quang:

Đêm mơ đến xứ nguyệt vàng
Vẳng xa buông lạnh mang mang tiếng thiền
Chập chờn nửa giấc cô miên
Tâm tư lay bóng con thuyền ra khơi
Trùng trùng sóng gợn luân hồi
Võng ru thuyền mộng vượt ngoài càn khôn


Con thuyền viễn mộng giong cánh buồm trắng mây bay qua những chiều phiêu nhiên mà thả hồn Một mình chạy chơi trên bờ biển:

Bóng nương bãi quạnh lướt đều
Cát in mau dấu hằn theo chân người
Giữa chiều nắng trải xa xôi
Thao thao sóng rượt hồn tôi ngút ngàn
Dặm về nguyệt tỏa mang mang
Một thân sinh tử hai hàng lệ sa


Rưng rưng hai hàng nước mắt, lặng u uẩn dặm về khuya khoắt ướt sương trăng. Trọn vẹn một trái tim đầy nhiệt huyết, luôn luôn mở rộng lòng ra để đón gió thanh tân từ ngàn phương lồng lộng thổi về nhưng cũng thường sửng sốt ngạc nhiên trước sự tàn bạo xảo trá, giả dối lừa gạt một cách tàn nhẫn của con người, nên thi nhân thỉnh thoảng rơi vào tâm trạng lạc lõng bơ vơ, lạc loài bỡ ngỡ, để rồi có đôi lúc thích Một mình giả chết trên bờ biển:

Nghe đời rút xuống xa xăm
Tứ chi rời rã tôi nằm im ru
Dã tràng tưởng giấc ngàn thu
Mon men vài chú đã bu quanh rồi
Phiêu phiêu mây bạc trên trời
Đưa tôi về cõi tuyệt vời mai sau


Màu mây bạc phất phiêu lãng đãng, tang bồng chốn nào tuyệt vời tận cuối biển đầu sông ? Sống giữa chợ đời đông đảo náo nhiệt, bắt buộc người ta phải biết suy ngẫm trầm tư để phân biệt đúng sai, phải quấy này nọ, nhưng khi đứng trước đại dương mênh mông rộng rãi thì điều đó không còn cần thiết nữa. Cứ thoải mái tha hồ vô tư với từng mạch luồng hơi thở, mở toang từng buồng tim thớ phổi ra mà thở cho thật nhẹ nhàng sảng khoái thẳm sâu như thi sĩ nhiều lần thẩn thơ Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ biển:

Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng nên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru


Nhà văn Võ Phiến rất tâm đắc bài thơ này, còn thiền sư Nhất Hạnh suốt bình sinh du hóa khắp nơi trên thế giới cũng chỉ xiển dương cái sự việc thở ra thở vào một cách vững chãi thảnh thơi như vậy mà thôi. Biển sóng ru êm ái rào rạt như tiếng nhạc mơ hồ xào xạc từ xa xôi đồng vọng lại, nghe dạt dào xao động như cung đàn Mozart, Schubert, Chopin, Beethoven… Nắng chiều tà nhòa nhạt, dần dần buông nhẹ xuống bóng hoàng hôn vàng lịm màu tím sẫm cuối ngày, lay bay giữa ngàn trăng thanh gió mát, làm sao mà không nổi hứng bỡn cợt rỡn đùa với nàng thơ diễm kiều lãng mạn phiêu diêu:

Chiều êm hơn cả gió lùa
Tôi ra cuối bãi tôi đùa với trăng
Tay choàng lên với môi hằn
Tôi mơn gió lả tôi măn vú đồi
Có hương có nhạc trên trời
Tóc tôi se gió mắt ngời ánh sao


Ồ thì ra là chàng ngồi một mình xốn xang với ảo giác lãng mạn đấy thôi. Sự việc tưởng tượng mơ mộng “vú đồi môi hằn” ấy là dấu hiệu đã đến tuổi dậy thì, gây gây mùi tính dục, khiến chàng bất giác thò tay xuống mân mê, mó máy cho rục rịch cụ cựa cái của quý, theo bản năng tự nhiên Một mình đã vọc c trên bãi biển :

Thật tình đã ngứa chưa con
Bốn bên lặng ngắt hoàng hôn đến rồi
Mai kia nằm chết giữa trời
Tôi ôm Tuyệt Đối một thời xuân xanh


Tuổi thanh xuân bừng dậy rạt rào, nao nức những đêm trăng huyền hòa tỏa ngan ngát hương biển ngàn mới lạ Nha Trang, những chiều vàng rạo rực hứng chí chi mà cứ mãi miết đuổi theo mấy áng mây trời khoáng đãng bao la, nhòa nhạt trong sóng nắng xa xăm, nhấp nhô dào dạt tiếng lòng long lanh, lấp lánh bao mộng đời ơi chao xao xuyến, miên man nỗi niềm chi không thể thốt nên lời để Một mình đuổi theo mây bạc bay trên biển:

Biển chiều còn lại mình tôi
Đuổi theo mây bạc giữa trời bao la
Thủy triều chợt rút ra xa
Bóng thanh xuân rụng ác tà sau lưng

Rừng biển tà huy vi vu vi vút từng mảng khói lam chiều phiêu hốt. Một mình chỉ một mình thôi. Nỗi cô đơn sóng lượn nhồi máu tim. Trùng dương bèo bọt nổi chìm. Niềm hư không đó nghe im lặng sầu. Sau lưng bỏ lại dấu thanh xuân khuất bóng, khi thi sĩ quyết định dời gót lên đường viễn phương hành vào phố thị Sài Gòn, tiếp tục chuyện sách vở học hành ở Đại học Văn Khoa. Tưởng là mở ra một chân trời mới, một niềm hy vọng phong quang xán lạn, nhưng bất ngờ trở chứng, tính khinh bạc ngông cuồng bộc phát đột ngột, mới học vài ba năm chưa tốt nghiệp thì đùng một cái chàng bỏ ngang dang dở nửa chừng, để lạnh lùng đứng dậy quay về thế giới độc đạo cô liêu của riêng mình. Tịch nhiên trầm lặng đối mặt với nỗi cô đơn rờn lạnh quạnh hiu, với nỗi sầu vạn đại tuyệt mù như thi sĩ Huy Cận : “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu.” Sầu thiên cổ mang mang quằn quại, nhói buốt ngay từ lúc còn trốn học lêu lổng mộng rong chơi:

Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Nhìn trước nhìn sau thấy rõ ràng
Những người đi trước sầu đeo nặng
Những người đi sau sầu không tan

Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Thấy hay hay nhưng làm sao cười
Như chuyện lớn lên rồi có vợ
Cuối đời về đất lạnh nằm xuôi

Ngập ngừng chân bước con đường vắng
Mây trắng bay lên òa đất trời
Tôi cúi đầu nghe mình nhỏ lệ
Biết chuyện gì rồi cũng buồn thôi


Người thi sĩ ứa lệ không phải vì xót thương cho thân phận của mình mà thực ra là chạnh lòng trắc ẩn trước sự mong manh mỏng mảnh, bèo bọt thoáng chốc quá ư là nhỏ bé phù du của kiếp nhân sinh giữa trời đất vũ trụ bao la, như nhà thơ Trần Tử Ngang một lần kia, tình cờ đi ngang qua nghĩa địa, thấy hàng trăm nấm mộ ven đường mà bàng hoàng cảm thán xót xa:

Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ


Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế có ý nghĩa gì trên cuộc về của chúng ta? Cuộc đi hay cuộc về là một cách nói văn vẻ cho có đầu có đuôi thế thôi, chứ thực ra chẳng có cuộc nào cả, ngoài cuộc sống đang diễn ra trước mắt sờ sờ, ngay trong từng hơi thở ra vào sinh động hằng ngày đây thôi. Cuộc sống thực tế, thực tại hiện tiền ngay đây trên mặt đất này là đã đủ đầy hoan lạc, vô cùng hạnh phúc rồi, đừng có ngu xuẩn vọng tưởng mong cầu một thế giới nào khác ở đâu đó trên trời với cảnh thiên đàng, cực lạc man thiên huyễn hoặc mơ hồ. Bao thần thánh, thần linh, thượng đế tối cao vô hình đang quan sát, chiếu cố chúng ta là một ảo tưởng, ảo giác cuồng si, chỉ là do những đầu óc mê vọng tưởng tượng bày vẽ ra, như đạo sĩ Osho tuyên bố : "Thượng đế không hiện hữu, chưa bao giờ có thực.” Không có thực thì làm sao mà chết được như Nietzsche đã nói ? Có lẽ Nietzsche muốn nói hãy chết đi cái ý niệm về thượng đế kia đó thôi. Vâng, hãy để những ý niệm, khái niệm ấy tan biến cho rồi. Với thi nhân, sống thì phải sống mãnh liệt, dốc hết sức bình sinh ra mà sống một lần thấu triệt thiên thu, siêu thần bạt thánh, cho nên hãy vận dụng thập thành công lực, đứng bật dậy nhảy múa hát ca sôi nổi nhập cuộc tuôn trào lai láng theo mạch đời trôi chảy đầy mới lạ mới mẻ, đầy đam mê xuất thần say sưa ngây ngất:

Hãy đốt đuốc hằng đêm trên trái đất
Cho núi rừng và biển thẳm lung linh
Các em làm sáng rực cả vô minh
Để anh có một nguồn vui bất tuyệt

Hãy đọc kỹ hồn anh trong bóng nguyệt
Các em vừa mười bốn với mười lăm
Bài học gần nhưng cũng rất xa xăm
Các em hãy bắt đầu yêu bụi cát

Bởi trái đất là niềm kiêu hãnh nhất
Dù xe đời lăn hố thẳm ngửa nghiêng
Đã chết rồi bao ngưỡng vọng thiêng liêng
Dù khuya vắng trời muôn sao lấp lánh

Chúng đã dựng lên bao nhiêu thần thánh
Ung thúi rồi dưỡng chất của chiêm bao
Đêm mới về niềm hoan lạc xôn xao
Ta đốt đuốc chạy dài trên trái đất

Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là bước đi muôn chiều tiêu dao của thi sĩ thiên tài Phạm Công Thiện, còn Nguyễn Đức Sơn nhà thơ xuất chúng thì đốt đuốc lên chạy dài trên trái đất thênh thang. Đi nghêu ngao hay chạy rộn ràng cũng cùng một thể điệu phiêu nhiên chuếnh choáng, hân hoan tiếp diễn lồng lộng bồng bềnh trên cánh gió ngàn xuân:

Một đêm sao ở trên rừng
Đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn tôi cây cối liên hoan
Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi vàng suối mộng trời thơ
Lớn lên tôi chết trên bờ hư không


Sống rạt rào hào hứng cho đã cái đời chơi ngông bồng bềnh nghệ sĩ rồi bất thình lình nỗi chết hiện về ám ảnh khôn nguôi, khiến chàng thi sĩ thượng thừa như thế cũng ngậm ngùi cay đắng, chẳng biết làm sao hơn là ngắm nước chảy mây trôi trước niềm đau khổ thống thiết chợt xảy đến trong đời:

Một ngày đau khổ chín trong tôi
Tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
Cây thả trái sầu trên nước lắng
Mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi


Thôi nhé ngàn năm em đi qua
Hồn tôi cô tịch bóng trăng tà
Trời sinh ra để chiều hôm đó
Tôi thấy mây rừng bay rất xa

Mây bay nước chảy, gió cuốn sương rơi là sự tuần hoàn tự nhiên của tạo vật đất trời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói “cứ để gió cuốn đi” hết những mối tình thơ mộng như dòng sông trôi cuốn phù sa ra biển cả muôn trùng. Chúng ta chỉ cần chứng kiến sự luân lưu trôi chảy là đủ rồi, biết thưởng thức vẻ đẹp luôn luôn thay đổi bởi muôn đời sự đổi thay biến chuyển là chân lý hiển nhiên. Ý thức trực tiếp được điều đơn giản đó, thi nhân chấp nhận sự thật và can đảm lẫm liệt thổi bừng lên ngọn lửa tim hồn đốt cháy, thiêu rụi cả thành vách bịt bùng khủng khiếp của hư vô để hiển lộ ra cái tinh túy tinh hoa, ngay trong sự đổ vỡ dở dang vẫn còn đó vầng trăng bát ngát, vầng trăng tâm linh xanh biếc thiên thu là nguồn cảm hứng sáng tạo vô cùng đắm đuối của bậc tài hoa Thi sĩ:

Khi ý thức mặt đất này dang dở
Ta vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
Khi chấp nhận ngàn lần trong đổ vỡ
Ta một hồn đắm đuối giữa tan hoang


Phản kháng, nổi loạn muốn chuyển hóa là cá tính vốn có sẵn trong dòng máu nhiệt liệt của nhà thơ luôn luôn tìm tòi mới lạ, khát khao tuyệt đối, khao khát tự do từ thời còn nhỏ tuổi, vì ý thức trực cảm trước sự đổ nát tan hoang trên mặt đất trần gian mà chàng lao đầu húc vào mọi thứ như muốn thách thức những thế lực vô hình cho nguôi đi ý niềm bổi hổi sục sôi:

Tôi dừng lại giữa năm mười sáu tuổi
Một sớm hồng nghe nắng rụng tan hoang
Tôi nằm xuống phập phồng hai lá phổi
Sao mạch đời đang chảy bỗng khô ran

Đau nhức quá trong tôi niềm tuyệt đối
Nên cởi quần chạy giữa đám vi lô
Tôi động cỡn nhảy kè bên khe núi
Rồi ôm đầu lao thẳng xuống hư vô

Hư vô, hiện sinh, tình yêu, tính dục là những vấn đề cháy bỏng nóng hổi mà tuổi trẻ rất băn khoăn, thắc mắc và nhà thơ trải lòng ra mà chia sẻ một cách tâm huyết rằng, các em hãy mạnh mẽ hùng tráng mỉm cười đứng lên, tự nhận trách nhiệm với chính mình, mãnh liệt hiên ngang sống tự do, tự giải thoát mình ra khỏi những bóng ma thượng đế, thánh thần vớ vẩn đang trú ẩn đâu đó ở trên cao vô tăm tích kia. Tư tưởng Nguyễn Đức Sơn tương ứng với tư tưởng đạo sư kỳ vĩ Krishnamurti : “Không có thượng đế nào khác hơn con người trở thành chí thiện. Không có một thần uy nào ở ngoài sai khiến được con người. Tuyệt nhiên không có thiên đường địa ngục nào khác hơn những cái do chính con người tạo ra. Cho nên con người chỉ có trách nhiệm đối với mình, chứ không nên nô lệ, lệ thuộc vào bất cứ ai khác, bất kỳ một kẻ nào khác.”** Vâng, đúng là như vậy ! Hãy kiêu hùng dũng khí lao đầu vào con đường không lộ, vô mục đích với tư thế tự tin tự lực, vững mạnh vững vàng:

Các em hãy đi tuần quanh trái đất
Ôi tuổi vàng mười sáu với mười lăm
Phải hoàn thành sứ mệnh một trăm năm
Trước khi biến tan vào trong bụi cát

Nắm tay cất đại đồng ca bát ngát
Ở trên đầu thần thánh với âm binh
Mấy ngàn năm nguồn cội của điêu linh
Chúng lảm nhảm an toàn sau bí tích

Kiêu dũng nhất là con đường không đích
Ta cắm đầu lao thẳng tới hư vô
Ôi mộng đời cháy sém cỏ cây khô
Trăng thế kỷ rừng Đông phương tỏa chiếu


Chịu chơi nhất là kẻ lên đường không mục đích, không hy vọng, chẳng mong cầu điều chi cả mà quăng ném trọn hồn mình vào cái thực tại đang là như đại văn hào Nikos Kazantzakis: “Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.” Trên tinh thần sáng tạo đó, bước đi của chàng thi sĩ xuôi ngược suốt muôn chiều phiêu bạt phiêu lưu, lang thang khắp vùng Phan Rang, Nha Trang, Đơn Dương, Đà Lạt, lưu linh lạc địa xuống miền Bảo Lộc, Bình Dương rồi tấp về Biên Hòa, Sài Gòn rộn rã… Cuộc lữ du sĩ ca qua mọi chốn miền duyên hải ngút ngàn biển xanh cát trắng rồi tưng bừng lên rừng cao rú thẳm xa xăm, có lúc sung sướng, thăng hoa phấn chấn ngất trời, rồi nhiều lúc cũng bầm dập tiêu điều, điêu đứng những nẻo đời gian nan bão bùng lốc xoáy lăn quay. Xoay xuở đủ đường trước bao nhiêu chuyện đa đoan thúc bách trăm chiều, tự đẩy mình vào những chốn khốn cùng túng quẩn nhất. Có lần xui xẻo bị bắt giam vào nhà lao vì trốn quân dịch, không chịu đi lính ra chiến trường cầm súng bắn giết đồng loại. Nằm co ro tê tái trong trại giam chật chội ngột ngạt giữa trưa nồng oi bức, bưng chén cơm tù lên thi nhân vẫn trân trọng sự sống, cảm tạ đất trời vô lượng bao dung:

Mỗi ngày cúi xuống hạt cơm
Anh nghe thấm một mùi thơm lạ lùng
Cắn đôi hạt muối thường dùng
Biết ơn trời đất vô cùng em ơi!
Trăm năm ta sống một đời
Ngàn năm gởi lại chút lời thở than

Ai đã từng lâm vào cái cảnh tù ngục đọa đày thì mới thấy thật là kinh rợn khủng khiếp như thân thể bị ghẻ lở tróc da đầy mình, bệnh tật bệnh hoạn không thuốc thang, nằm bầm dập não nề thê thảm, chẳng có một người nào chăm sóc thì bất cứ ai ai cũng cảm thấy xót thân tủi phận, căm hờn phẫn nộ bọn cầm quyền độc tài tàn bạo, thế nhưng ở đây, thái độ ứng xử lại trái ngược hoàn toàn, chàng thi sĩ bị đọa đày nhốt trong tù như thế mà không oán giận, vẫn thản nhiên điềm nhiên bày tỏ những lời tri ân chân thành, cảm ơn tật bệnh ghẻ lở, cảm tạ sự tăm tối vô minh, Cảm ơn tù:

Cảm ơn ghẻ mọc đầy mình
Cảm ơn bệnh hoạn chung tình với ta
Cám ơn dái tróc lòi da
Cảm ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cảm ơn tất cả xa rồi
Hôm nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi


Cảm tạ tất cả sự nghiệt ngã của cuộc đời vì nhờ đó mà nhà thơ mới có cơ hội đối mặt với bản thân, thấy lại cái mặt mũi xưa nay của chính mình. Ơi chao ! Thật là một cái nhìn sáng tạo tân kỳ, chỉ có những bậc siêu việt mới thấy được như thế, biểu lộ một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại, vì đối với một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại thì dù họ có sống ở đâu, ngay cả trong ngục tù tối tăm đi chăng nữa, họ cũng chuyển thành một dịp may hy hữu, vẫn thấy xiết bao nguồn cảm hứng sáng tạo như thi hào Rainer Maria Rilke phát biểu : “Nếu đời sống thường nhật trở nên nhạt nhẽo nghèo nàn đối với mi thì mi đừng bao giờ oán trách nó. Mi hãy tự trách chính mi rằng mi không đủ tâm hồn thi nhân để mà có thể gợi dậy trong lòng mình tất cả sự phong phú miên man của đời sống thường nhật. Vì đối với một con người sáng tạo thì chẳng có gì nhạt nhẽo nghèo nàn, chẳng có một nơi chốn nào là khô khan lãnh đạm, dù ngay lúc mi đang ở trong nhà tù đi nữa, giữa những vách tường bưng bít, không để lọt vào những tiếng động của thế gian. Phải chăng ngay lúc đó trong lòng mi vẫn luôn luôn còn lại tuổi thơ, kho tàng quý báu, chứa chất bao nhiêu kỷ niệm tuyệt vời ? Hãy hướng tất cả tâm tư mi vào đó… Dọ dẫm tận đáy lòng sâu thẳm mà từ đó đời sống mi đã phát nguồn luân lưu trôi chảy…Bởi vì một nghệ sĩ sáng tạo bao giờ cũng có một vũ trụ cho riêng mình, phải tìm tất cả mọi sự ngay trong tâm hồn sâu thẳm của chính mình đây thôi.”*** Ngồi trong song cửa sắt, nhà thơ lặng lẽ gởi hồn về chốn miền viễn mộng Bình Dương, nơi có bà con chòm xóm và người yêu dấu cũ đang chờ đợi buồn tênh:

Bên trong khung cửa sắt này
Anh ngồi đếm lại từng ngày xót xa
Đêm qua mơ trốn về nhà
Ôm em ngủ suốt canh tà với trăng

Có ai về được Bình Dương
Hỏi thăm chòm xóm có thường hay không?
Đêm đêm bom tưới đầy đồng
Những oan hồn cũ bế bồng đi đâu?


Sầu áo não nghe se sắt lạnh máu tim hồng. Chẳng biết chư Phật, chư Bồ tát mầu nhiệm ở đâu đó tận trên bầu trời cao xanh thẳm kia, có thấy địa cầu đang chìm trong bóng tối om om và bom đạn súng ống chĩa đen ngòm bốn phía hay không ? Lòng kẻ bị tù đày giam nhốt thờ thẩn vẩn vơ, đôi khi lặng trầm Nói với Quán Thế Âm:

Cho con xin một ánh trăng
Đêm nay mười bốn phải chăng khởi đầu
Trên cao tỏa sáng nhiệm mầu
Sao con chỉ thấy địa cầu tối om
Bốn bên súng chĩa đen ngòm
Thiết tha tâm Phật con dòm vô trong

Biết dòm vô trong lòng mình là có dịp sẽ bừng sáng, hoát nhiên đại ngộ, thấy được Phật tánh thanh tịnh vốn thường hằng hiện hữu tự bao giờ. Một khi tri kiến Phật, thấy được Tâm Phật rồi thì tự nhiên có thái độ hỷ xả dung thông. Sống trong xã hội thời loạn ly, bị vây khổn ngột ngạt đầy âu lo khó thở, nhà thơ mơ ước ngày mai kia, tất cả nhà tù ngục, trại giam nhốt con người đều bị chôn vùi dưới mộ địa, không còn tồn tại trên mặt đất thân yêu này nữa:

Mai kia dù chế độ nào
Một trăm một triệu phong trào đi qua
Làm sao tất cả chúng ta
Chỉ còn trông thấy mồ ma nhà tù
Nằm trên trái đất vi vu
Bao la trời biển tiếp thu tình người


Với tâm hồn thi nhân tuyệt hảo, vô cùng phong phú đó, Sơn Núi nhào lộn vào cuộc tồn sinh, giáp mặt trăm bề nghìn phía, từng băng qua lội nát mọi chân trời triết lý Đông Tây kim cổ, ngưỡng mộ triết gia Héraclite, tôn sùng văn hào Dostoevsky và nhất là rất thích ưa thưởng thức những hương ngàn cỏ nội, kỳ hoa dị thảo của thục nữ mười phương như có lần thi sĩ bày tỏ rõ ràng : “Ngưỡng mộ Héraclite, Dostoevsky và Simone Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui xuống lỗ…” Chao ơi ! Mới nghe nhà thơ nói thật lòng thật dạ một cách thiệt tình không giấu giếm như thế, khiến ai cũng phải bật cười thú vị. Vì dường như hầu hết thiên hạ người đời trên cõi ta bà tục lụy này đều thích làm chuyện ấy mà chẳng dám nói ra đó thôi. Họ mắc cỡ, cố làm ra vẻ đạo mạo nghiêm trang, điệu bộ mẫu mực chững chạc đàng hoàng nhưng bên trong lòng dạ thì bị ức chế điều đó lắm, vẫn ham muốn thèm khát âm thầm. Nhằm khai mở những ức chế không đáng có đó, thi nhân vén lên tấm màn che đậy để hiện bày ra sự thật trần truồng qua cách nhìn nghệ thuật mỹ cảm hiện sinh tinh tế, bằng sự rung động bồng tênh cảm khoái, ly kỳ gay cấn rất mực chịu chơi kiểu Alexis Zorba hòa tấu cung đàn santuri rộn rã tiếng cười hoan lạc chuyện gái trai:

Trên rừng ấy một mình anh hái trái
Đang mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em vén quần sắp đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim

Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
Miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa đái mà hồn anh đã ướt

Không biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một đêm vàng rúng động giấc thanh tân
Dưới chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em đái dầm ướt sẫm cả trần gian

Giữa khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp trong người em máu nóng đang căng
Xao xuyến quá em tuột quần xuống đái

Bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu

Tất cả chúng ta ra đời được là nhờ cửa tồn sinh kỳ diệu đó, cái cửa mình của người phụ nữ mà Mật Tông Tây Tạng ví như đóa hoa sen thơm ngát mọc lên từ đáy ao hồ đầy bùn lầy nhầy nhụa làm tỏa hương thanh khiết cho đất trời. Bất cứ bậc giáo chủ, hoàng đế, thượng sĩ, vĩ nhân nào trên mặt đất trần trụi này thì cũng đều khai sinh ra từ cái nụ liên hoa mầu nhiệm đó mà thôi. Ơi hương đời luôn luôn mới lạ nhiệm mầu ấy, thi nhân tha hồ thưởng thức rực nồng hơi ấm âm dương bay phưỡng phất đậm đà hòa quyện giữa nhật nguyệt phập phồng hoan lạc ngát lâng lâng:

Đây lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
Đưa anh vào trong cõi mộng xa xăm
Giọt tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
Rừng đông phương mù mịt dấu em nằm

Anh mường tượng ngày kia anh chứng ngộ
Đang cởi quần hai mắt lệ rưng rưng
Ôi quá biết tử sinh đều thống khổ
Ở trên giường em vẫn nẩy bưng bưng

Thở hổn hển là bắt đầu sướng nhất
Cỏ cây nằm im bẹp giữa hôn mê
Giường tre cũng rung rinh như trái đất
Nên suốt đời tôi thích ở nhà quê

Thà ở nhà quê, thà làm thằng chăn trâu mộc mạc hoang dã, sống thiệt tình với chính bản chất của mình như Alexis Zorba tha hồ nhảy múa, đùa chơi cùng toàn thể mộng đời với xiết bao cô em mọi nhỏ, thẹn thò thôn nữ bờ mương, xiết bao hồng nhan thục nữ yểu điệu tuyệt trần, diễm huyền tiên nữ, thiên hương quốc sắc giai nhân, thuyền quyên tuyệt mỹ nhu mì. Rồi đôi khi rảnh rỗi, ngồi ngẫm nghĩ cái gì đó mà hứng khởi trầm trồ:

Cái lỗ
Tối cổ


Ồ thì ra, thì ra chính cái đó là mối giềng mở ra cả miên trường, vạn đại cõi dục giới trùng trùng sinh diệt mãi mãi:

Cái lỗ của em
Cùng với cái lỗ huyệt
Mở ra hai đầu sinh tử bất tuyệt


Biết quán chiếu về cái lỗ tối linh có từ thượng cổ ấy cùng với cái lỗ huyệt, tức là quán chiếu triệt để vấn đề sinh tử trọng đại, còn hơn là chễm chệ phì nộm nặng nề ngồi bệ vệ trên ghế nệm sa lông trong tường cao cổng kín phòng máy lạnh, bày đặt huênh hoang hội thảo quốc gia này đến hội thảo quốc tế nọ, để luận bàn về chiến tranh hay hòa bình, tình yêu hay tính dục, tư bản hay cộng sản, duy tâm hay duy vật, Phật hay Chúa, tà hay chánh, thánh hay phàm, thiện hay ác, hữu hay vô… bất tận không ngừng:

Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló

Cái mồng là ẩn ngữ gay cấn ly kỳ, lung linh chập chờn không rõ hình dạng, thoáng ẩn thoáng hiện trong cách sử dụng tài tình nghệ thuật ngôn ngữ của thi sĩ. Tuy nhiên, có lúc cũng cần chỉ rõ trực tiếp ngay vào chỗ đó để gợi hình gợi cảm, cho nên nhà thơ cứ hồn nhiên nói thẳng một cách gây ấn tượng, chẳng hề e dè e ngại:

Cái l...
Chúa ồn


Ồ ồ, độc nhất vô nhị, chỉ duy nhất một cái đó thôi mà toàn thể nhân loại từ cổ chí kim đều chìm đắm, đam mê đến độ túy sinh mộng tử. Bao nhiêu triều đại hưng phế, bao nhiêu công hầu khanh tướng, xương chất thành núi, máu chảy thành sông ướt đẫm dòng dòng sử lịch cũng vì muốn chiếm hữu, giành giật, hưởng thụ, thỏa mãn cái đó mà thôi. Thật ra, nhìn từ bình diện khác thì cái đó là linh vật, vật thiêng, là thần Vệ Nữ như người dân Ấn Độ thờ phượng trong các đền điện tôn nghiêm, hay ở thánh địa Mỹ Sơn, Việt Nam cũng thờ linh vật Linga ấy. Còn“Chúa ồn” có nhiều nghĩa ẩn dụ, hàm ý ví von, có thể hiểu cái đó là vị chúa tể sinh ra đủ thứ ồn ào, lộn xộn trong cõi ta bà, dục giới này hay là gì gì đó cũng được, mặc sức tự do cho chúng ta hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng cần bận tâm thắc mắc, đắn đo do dự, rắc rối lôi thôi chi cả, cũng như:

Củi
Để chẻ
Gái
Để xẻ


Té ra là như thế ! Mấy nhà đạo đức giả chắc sẽ đỏ mặt, nghiến răng chửi thề đồ dâm dục tục tĩu, nhưng khoan, hãy bình tĩnh để nghe triết gia thi sĩ Phạm Công Thiện nhận định: “Nói đến tình yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo sư Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc : “Tại sao chúng ta biến tình dục thành ra một vấn đề?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở thành vấn đề. Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên với tình yêu, tình thương như đóa hồng hé mở với giọt sương mai ? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục là sự trôi chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.”**** Có lẽ xưa nay chưa từng có ai trên thế giới phát hiện ra một chân lý đơn sơ giản dị mà khổng lồ như Sơn Núi đã phát hiện độc đáo Vậy thôi chứ còn đòi cái gì nữa:

Mộ
Một nấm

Hai núm


Chỉ cần sáu từ ngắn gọn thôi, thi nhân đã lột tả toàn diện, nói lên được toàn thể sự sống và sự chết muôn đời của kiếp nhân sinh trên quả địa cầu tròn đang quay lông lốc giữa không gian.

Chàng thi sĩ xuất hiện trên diễn đàn văn nghệ như một hiện tượng lạ, một quái kiệt thiên lôi sấm sét, có cách ăn nói lạ lùng bộc trực, khinh bạc khác thường, bàng bạc ngát hương tình tính dục, rung động hòa âm đậm đà chất lửa linga cháy nồng nàn hơi ấm âm dương. Bằng cái giọng ngang tàng quyết liệt, gây ấn tượng nổi bật vì chuyên gây hấn, tấn công những bọn côn đồ khát máu, bọn người ngợm đội lốt tôn giáo, văn nghệ để làm những chuyện xằng bậy, gian trá quỷ quyệt, lợi dụng rủ rê mê tín, bắt người ta thờ lạy đấng thượng đế tối cao, bậc thần thánh tối hậu ở đâu đâu mù mịt xa lắc tận trên chín tầng trời, gieo rắc bao nhiêu nỗi sợ hãi cho rất nhiều người nhẹ dạ. Làm gì có những cảnh giới thiên đường, tây phương cực lạc ở trên đó. Có lần bất nhẫn điên tiết, chàng gầm lên la hét thật to:

Tôi định một ngày nào đó
Thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa


Chán ngấy muốn lộn mửa cái cảnh ngoài miệng thì nói bô bô đủ thứ chuyện thiện lành thánh thiện, bác ái vị tha, lương tâm đạo đức nhưng bên trong tâm địa thì hắc ám đầy hiểm ác gian manh kiểu Hoạn Thư : “Mặt ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.” Ngao ngán loại người ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần nói một đường làm một ngã, đeo mặt nạ giả danh pháp sư, nhà truyền giáo, chuyên môn lừa đảo tinh vi quỷ quái vẫn còn hoạt động rộn ràng phát huy môn phái, mở rộng nhà ma cửa quỷ, hoằng dương tà đạo loạn xà ngầu bát nháo lao xao:

Người ta giấu cái đạo
Trong hũ gạo
Trời ơi!


Đó là một sự thật cay đắng, bất đắc dĩ thi sĩ phải nói ra, khiến cho bọn đạo đức giả tức hộc máu, không biết làm chi hơn gán ghép chàng là kẻ phá hoại, báng bổ thần thánh, tên du côn hoang đàng ngạo mạn, đồ man di mọi rợ, điên khùng… Chúng không biết rằng, trong thơ văn chàng trái lại, chứa chan tràn đầy tính chất trữ tình lãng mạn, ăm ắp niềm yêu mến thiên nhiên, yêu thương nhân loại, mở ra bầu không khí trong lành khoáng đãng tự do hít thở, bằng cái giọng rất tân kỳ mới lạ quá đỗi đặc biệt quyến rũ một cách bất ngờ. Cái giọng thơ phiêu bồng độc đáo vô song xưa nay chưa từng thấy. Thơ văn chàng bắt đầu đăng tải nhiều trên các tạp chí Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi … .

Thời kỳ đó là vào khoảng năm 1960 đến 1975 sinh hoạt văn nghệ Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang chuyển mình thăng hoa huy hoàng, phát triển rầm rộ về mọi mặt. Hàng ngàn tác phẩm thơ văn, nhạc họa, dịch thuật đủ thể loại kim cổ Đông Tây thi nhau xuất bản, ấn hành mạnh mẽ. Nổi bật nhất là các khuôn mặt Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nhất Hạnh, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Thạch Trung Giả, Trúc Thiên, Cung Trầm Tưởng, Tường Linh, Nguyễn Duy Cần, Tam Ích, Nguyễn Đăng Thục, Đông Hồ, Lê Văn Siêu, Quách Tấn, Ngô Trọng Anh, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc, Giản Chi, Nghiêm Xuân Hồng, Như Hạnh, Trần Công Tiến, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Hồ Thành Đức, Đinh Cường, Đỗ Hồng Ngọc, Kim Định, Hoàng Ngọc Châu, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương, Thi Vũ, Trần Xuân Kiêm, Kim Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Kiêm Thêm, Trần Thanh Hiệp, Kiêm Minh, Hồ Minh Dũng, Thế Uyên, Nguyễn Xuân Hoàng, Huy Tưởng, Nguyễn Tôn Nhan, Thế Viên, Hoàng Ngọc Tuấn, Luân Hoán, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Hoàng Trúc Ly, Mai Thảo, Cung Tích Biền, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Nguyễn Hữu Hiệu, Võ Phiến, Tô Thùy Yên, Vương Tân, Nguyễn Tất Nhiên, Duyên Anh, Trần Phong Giao, Bửu Ý, Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Lộc, Phan Nhật Nam, Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Chu Tử, Thùy Dương Tử, Huy Trâm, Võ Chân Cửu, Thạch Chương, Vũ Hữu Định, Linh Phương, Nguyễn Lương Vỵ, Mường Mán, Dương Nghiễm Mậu, Thành Tôn, Đặng Tấn Tới, Đặng Tiến, Nguyễn Bắc Sơn, Tạ Tỵ, Ngô Nguyên Nghiễm, Tạ Ký, Du Tử Lê, Thế Phong, Đynh Trầm Ca, Nhật Tiến, Hạc Thành Hoa, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị Tuệ Mai, Phùng Khánh tức Thích Nữ Trí Hải…
(còn tiếp)