PDA

View Full Version : Mối tình bất hủ của Thi sĩ Hữu Loan



Quốc Hoàng
06-10-2016, 16:20
.


Mối tình bất hủ của Thi sĩ Hữu Loan



Trời đứng bóng chúng tôi mới tới được nhà ông, đứng ngoài cánh cổng bằng tre gài sơ sài, tôi réo thật to: “Cụ Loan ơi!”.

Gần đây nghe tin ông ốm nặng, bệnh thấp khớp tái phát, đau nhiều khiến ông không đi lại được. Không biết đã bao lần tôi định bụng thu xếp công việc để về quê, ghé thăm ông, nhưng rồi cứ lần lữa mãi. Hôm nay nghe tin ông mất(ông mất lúc 19h, ngày 18/3/2010), tôi bàng hoàng, vừa đau buồn, vừa trách cứ bản thân.

Xin tạ lỗi cùng ông, tôi viết lại những kỷ niệm về ông như một lời tiễn biệt. Ở nơi chín suối mong ông được bình an!

Một số phận long đong

Lần cuối cùng gặp ông cũng đã tới 6 năm rồi. Ấy là khi chúng tôi cùng ông Lê Văn Chính, Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB (từ thành phố Hồ Chí Minh ra) vào nhà ông (dưới chân núi Văn Lỗi, làng Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách Thành phố Thanh Hóa chừng 50km) để xin nhượng bản quyền bài thơ “Màu tím hoa sim”.

Trời đứng bóng chúng tôi mới tới được nhà ông, đứng ngoài cánh cổng bằng tre gài sơ sài, tôi réo thật to:

“Cụ Loan ơi!”.

Lát sau, ông lững thững đi ra, áo may ô ba lỗ màu cháo lòng, quần đùi lửng, tay cầm chiếc quạt mo, vỗ phành phạch mấy cái vào đùi hỏi vọng ra:

“Đứa nào đấy?”.

Ông nheo mắt nhìn vào mặt tôi, rồi chợt nhận ra, có vẻ rất vui, cười sảng khoái. Ông bảo:

“Trừ mày ra bố bảo đứa nào dám réo tên tao oang oang như rứa”.

Khi biết mục đích chuyến thăm ông lần này là Công ty điện tử Vitek VTB muốn mua độc quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” của ông với cái giá 100 triệu đồng, ông tỏ ra khá sửng sốt.



http://media.tinmoi.vn/2010/03/21/xhhuuloan.jpg


Nhà thơ Hữu Loan.

Ông mời chúng tôi ngồi bên cái chõng, dưới gốc cây khế ngoài vườn, rồi lặng lẽ rót rượu ra mời khách. Mái tóc ông bạc trắng, để dài xõa xuống ngang vai, trước trán găm một cái bờm bằng nhựa màu huyết dụ. Bước vào cái tuổi cửu tuần rồi mà mắt ông vẫn còn tinh anh, giọng ông còn sang sảng, chỉ có điều, trông ông hơi hốc hác, những gân cổ và xương quai xanh nổi gồ cả lên, như đắp bằng thạch cao, như vạc bằng rìu.

Nhấp một ngụm rượu ông nhìn vào ông Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB như thăm dò:

“Thế các ông lấy bao nhiêu phần trăm?”.

“Của cụ hết cụ ạ” - sau khi nghe ông Chính nói vậy ông cười khà khà, quạt lấy quạt để.

Theo lý lịch công tác thì nhà thơ Hữu Loan sinh năm 1916, nhưng ông nói với tôi là ông sinh năm 1914 trong một gia đình tá điền nghèo, hồi nhỏ ông không có cơ may được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ cùng trang lứa, chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người cha dạy dỗ. Cha ông tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, ông cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.

Có lần Hữu Loan kể rằng, vào khoảng năm 1938, ông vác lều chõng ra Hà Nội đua tài, không phải là để thăng quan phát tài mà là để chứng minh cho đám con cháu nhà giàu thấy rằng con tá điền, không được đến trường, vẫn đỗ cao như chơi.

Đám sĩ tử kinh thành từ chỗ nhìn ông bằng “nửa con mắt” khi bước vào trường thi, đến “tròn con mắt” khi thấy tên ông trên bảng vàng. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi sáu bảy chục năm sau người ta vẫn còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, như Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và Hữu Loan.

Có thể nói cuộc đời ông là một bi kịch lớn. Hữu Loan tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, rồi tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa)... Trước năm 1945, ông từng là cộng tác viên trên các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban Hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa. Theo Hữu Loan kể lại thì một lần tại cuộc họp của Ủy ban hành chính ông đã nhảy lên bàn đấm thẳng vào mặt một tay "giữ "túi cơm, manh áo” của kháng chiến, đã ăn bớt ăn xén của anh em lại còn phát biểu láo”. Hữu Loan bỏ về quê đi cày. Mến mộ tài danh cái “gã giang hồ mà lịch duyệt” ấy nên lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn đã mời ông vào phục vụ trong Đại đoàn 304.

Sau năm 1954, ông về làm biên tập viên tại Báo Văn Nghệ. Nhưng rồi cũng chỉ được một thời gian ngắn. Chán ngán với cảnh “gà nhà đá nhau”, rồi “gà nhà bị người ta đá”, ông đứng giữa sân trụ sở làm việc bẻ đôi chiếc bút, vứt vào sọt rác:

“Ông đếch làm việc với chúng mày nữa” và bỏ về quê đi cày, đi thồ đá bán lấy tiền nuôi đàn con hơn chục đứa. Và ông ở quê cho tới ngày ông trút hơi thở cuối cùng.

Người con gái trong “Màu tím hoa sim”

Trong sự nghiệp sáng tác của mình Hữu Loan viết không nhiều. Trong số khoảng trăm bài thơ của ông mà tôi biết, thực tình mà nói, tôi vẫn coi “Đèo cả” là một tuyệt tác của ông. Tuy nhiên bài thơ mà nhiều người biết đến nhất và ông nổi tiếng vì nó lại là bài “Màu tím hoa sim”. Và gần như cuộc đời thăng trầm của ông cũng gắn với bài thơ này.

Theo nhà thơ Hữu Loan thì đây là bài thơ ông khóc người vợ xấu số của mình là Lê Đỗ Thị Ninh. Xung quanh câu chuyện này đã được kể và viết rất nhiều và không ít người đã thêu dệt cho nó ly kỳ.

Trong nhiều năm quen biết và qua nhiều lần trò chuyện cùng ông cả trong lúc “trà dư tửu hậu”, ông đã kể cho tôi nghe về người vợ xấu số của ông. Tôi cũng đã về tận Nông Cống (Thanh Hóa) nơi Lê Đỗ Thị Ninh bị dòng nước cuốn đi và “sinh ra” cho người đời một khúc bi ca bất hủ. Tôi cũng đã lần tìm tới những người thân của bà Ninh để được nghe về cuộc đời ngắn ngủi của bà.

Nhà thơ Hữu Loan kể:

“Vào khoảng năm 1932-1933, tôi được gia đình cho lên thành phố Thanh Hoá để theo học trung học.

Ở Thanh Hoá thời bấy giờ có hai hiệu sách rất nổi tiếng. Một hiệu có tên là Hà Thành. Đây là hiệu sách của ông Trương Khâm, khi ấy là huynh trưởng hướng đạo sinh Hà Thành. Còn hiệu sách thứ hai là hiệu Hoà Yên của bà Tham Kỳ (tức bà Đái Thị Ngọc Chất) ở 48 phố Lớn (Trần Phú hiện nay). Bà Chất là vợ ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư canh nông, có lúc làm Thanh tra canh nông Đông Dương; sau này từng làm Chủ tịch huyện Đông Sơn, rồi huyện Nông Cống, Thanh Hoá, là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. Sau này ông Kỳ đưa cả gia đình ra Hà Nội sinh sống. Lũ học sinh chúng tôi thường ra hiệu sách của bà Tham Kỳ để mượn đọc”.

Bà Đái Thị Ngọc Chất là người rất yêu văn chương, thấy Hữu Loan nhà nghèo nhưng lại ham học nên rất quý. Bà thường “đàm đạo” thơ văn với Hữu Loan. Phần vì trọng tài, phần vì nể phục tư chất thông minh và khảng khái của chàng trai nên bà Chất bàn với chồng mời Hữu Loan về làm gia sư cho 3 người con trai của mình.

Trong bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan viết rất thật: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội...”. Người con trai cả của ông bà Tham Kỳ là Lê Hữu Khôi, tham gia kháng chiến chống Pháp, hy sinh (năm 1954) chỉ vài giờ trước khi đơn vị của ông bắt sống tướng De Castris, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Người con trai thứ ba mà Hữu Loan làm gia sư là Lê Đỗ An, sau này lấy tên là Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (nay đã mất). Lê Đỗ Thị Ninh là cô con gái kế tiếp của vợ chồng ông Tham Kỳ.

“Các em nàng có em chưa biết nói...”. “Người em chưa biết nói mà nhà thơ Hữu Loan nói tới trong bài thơ chính là em Lê Thị Như Ý, sau này là giáo viên, hiện đã nghỉ hưu tại Hà Nội” - Trung tướng Phạm Hồng Cư cho chúng tôi biết.

Khi Hữu Loan đến làm gia sư trong nhà ông bà Tham Kỳ thì ông đã 18 tuổi (Hữu Loan sinh năm 1916) còn Lê Đỗ Thị Ninh còn là một cô bé vài ba tuổi. Ông đã viết rất thực: “Yêu nàng như tình yêu em gái”. Ông coi Lê Đỗ Thị Ninh như em gái thật.

“Nhưng hình như ngay từ lúc tôi bước chân tới nhà bà Tham Kỳ thì bà cụ đã có ý gán Ninh cho tôi. Bà rất quý tôi, dành cho tôi nhiều ưu ái. Tôi ở trong nhà một thời gian thì dọn đi vì bà không chịu lấy tiền nhà, nhưng khi tôi ngã ốm thì bà lại đưa về nhà nuôi. Lê Đỗ Thị Ninh khi ấy còn nhỏ nhưng đã rất có cá tính. Nàng không thích lụa là mà chỉ thích mặc áo vải. Như duyên tiền định, mặc dù trong nhà không ít người làm, nhưng nàng vẫn thường tự rút quần áo của tôi phơi ngoài sân” – Hữu Loan cho biết trong lần trò chuyện với chúng tôi.

Khi Lê Đỗ Thị Ninh lớn lên đi học thì Hữu Loan đã trở thành thầy dạy Pháp văn tại một trường tư thục ở Thành phố Thanh Hoá. Hàng ngày bà Tham Kỳ cho xe kéo tay đưa cô Ninh đi học, sau đó đưa Hữu Loan đến trường. Lê Đỗ Thị Ninh học đến lớp 5 thì Nhật ném bom nên đành phải thôi học.

Trung Tướng Cư nhớ lại:

“Em Ninh là một cô bé hiền thục và chăm làm lắm. Bố tôi chuyển ra Hà Nội làm ở Bộ Canh nông, ba anh em chúng tôi ra Hà Nội học rồi tham gia cách mạng. Mẹ và em Ninh phải về ấp Thị Long (Nông Cống, Thanh Hoá), nơi gia đình chúng tôi có mấy mẫu ruộng, đồng thời cũng là để nuôi bà ngoại tôi bị ốm nặng nằm liệt (tai biến mạch máu não). Mẹ tôi phải túc trực bên bà nên mọi chuyện như làm ruộng, nuôi gà, chăn vịt... đều dồn hết lên vai em Ninh”.

Tuy nhiên chuyện chỉ mới dừng ở đấy, bởi vì đối với Hữu Loan khoảng cách tuổi tác giữa hai người quá lớn (16 tuổi) và ông vẫn coi Ninh như em gái.

Mối tình bất hủ

Sau cách mạng Tháng Tám, Hữu Loan trở thành Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách 4 ty: giáo dục, thông tin, công chính và thương chính. Khi khai mạc “Tuần lễ vàng”, ông viết và đọc một bài diễn văn hùng hồn khiến nhiều người dân, trong đó có cô Lê Đỗ Thị Ninh lúc ấy đã 15 tuổi, vô cùng xúc động, đã bỏ tất cả vòng tay, hoa tai vàng ra để hiến cho cách mạng.

Một lần trên đường từ Thanh Hoá vào đơn vị Nguyễn Đình Tiên đã nói với Hữu Loan:

“Tao thấy con bé Ninh đem va ly quần áo của mày ra phơi và chải đấy”.

Hữu Loan ngồi im lặng. Nguyễn Đình Tiên nói thêm:

“Hình như chị Kỳ muốn gả nó cho mày”.

Hữu Loan gạt đi:

“Nó còn nhỏ quá, tao coi nó như em gái mình, lấy làm sao được mà lấy”.

Nguyễn Đình Tiên mắng át đi:

“Mày lạc hậu lắm. Chị Kỳ dành cho mày mà mày lại không nhận là mày bạc lắm”.

Hữu Loan vẫn phân vân. Nguyễn Đình Tiên bồi thêm:

“Thôi được rồi để tao thu xếp cho”.

Sau đó Hữu Loan nhận được thư của bà Tham Kỳ gửi vào. Ngày mùng 6 tháng hai (âm lịch) năm 1948, đám cưới của Hữu Loan và Lê Đỗ Thị Ninh được tổ chức tại ấp Thị Long. Đám cưới đúng như Hữu Loan tả trong thơ:

“Tôi mặc đồ quân nhân/ đôi giày đinh/ bết bụi đất hành quân/ nàng cười xinh xinh/ bên anh chồng độc đáo”.

Hữu Loan nghỉ phép ở bên người vợ trẻ được một thời gian, trong đó có ít ngày hai vợ chồng về thăm quê ông ở Nga Lĩnh, Nga Sơn. Hữu Loan kể rằng có lần hai vợ chồng đi chơi với nhau ở phố Thanh Hóa, Hữu Loan 33 tuổi, để râu ria rậm rạp tự thấy mình già, đi bên cạnh người vợ mới 17 tuổi thì ngượng nên cứ cố ý tụt lại sau. Người vợ trẻ kéo ông đi cạnh mình rồi bảo:

“Em thích có người chồng già như anh”.

Sau “tuần trăng mật”, Hữu Loan từ biệt người vợ trẻ trở lại đơn vị lúc ấy đang đóng quân ở Thọ Xuân (Thanh Hóa), cách nhà chừng 100 cây số. Thỉnh thoảng chủ nhật Hữu Loan tranh thủ về thăm vợ. Hạnh phúc của họ thật ngắn ngủi, gần 4 tháng sau ngày cưới, ngày 29 tháng 5 (âm lịch) năm 1948, Lê Đỗ Thị Ninh bị chết đuối tại ấp Thị Long khi đang giặt ở sông Chuồng.

“Gió sớm thu về/ rờn rợn nước sông…”.

Con sông dữ, mùa nước lũ ở vùng núi Nưa nước cuồn cuộn đổ về, nàng ra sông giặt, trượt chân ngã và bị nước cuốn đi.

“Tôi về/ không gặp nàng. / Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương/ tàn lạnh vây quanh”.

Khó hình dung nổi nỗi đau của Hữu Loan khi nghe tin vợ mất, nàng còn quá trẻ:

“Tóc nàng xanh xanh/ ngắn chưa đầy búi. /Em ơi giây phút cuối/ không được nghe nhau nói/ không được nhìn nhau một lần”.

Nhà thơ Vũ Cao sau này kể lại:

“Hôm ấy ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Lê Đỗ Thị Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung tóe xuống bàn, mặt anh tái xanh…”.

Và rồi ba người anh của nàng cũng bàng hoàng. Trung tướng Phạm Hồng Cư kể:

“Vào thời gian em Ninh mất tôi và anh Khôi đang ở mặt trận, còn chú Lê Đỗ An (tức Nguyễn Tiên Phong) thì đang công tác ở Trung ương đoàn. Năm 1949 tôi được điều về làm ở phòng chính trị Cục quân huấn của Cục Chính trị Bộ quốc phòng (nay là Tổng Cục chính trị), trong một lần đi họp có gặp anh Võ Trí Sơn, bạn thân của anh Hữu Loan, đồng thời cũng là người bạn của gia đình chúng tôi. Anh Sơn bảo: “Em Ninh chết rồi, em chết đuối”. Tôi choáng váng. Anh Sơn bảo tiếp: “Nó lấy Hữu Loan đấy”. Lúc bấy giờ tôi mới biết em Ninh đã lấy nhà thơ Hữu Loan”.

Đúng như Hữu Loan viết trong bài thơ: “Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ biết tin em gái mất/ trước khi em lấy chồng”.

Hữu Loan viết “Màu tím hoa sim” năm 1949, khi đang dự chỉnh huấn ở Nghệ An. Ông viết liền một mạch, xong trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần như hoàn chỉnh luôn, sau này ông chỉ sửa thêm rất ít. Nó là một phần của cuộc đời Hữu Loan, mà có thể lại là phần đẹp và buồn nhất, nên cho dù ông viết rất thật, rất mộc mạc, nói như Vũ Bằng là “không có gọt rũa, không có văn chương gì cả”, hay như Vũ Cao “không có chữ nghĩa gì cả”, nhưng lại có sức lay động tột cùng và có sức sống mãnh liệt ngay cả trong những giai đoạn mà tác giả và tác phẩm không được thừa nhận.



http://media.tinmoi.vn/2010/03/21/xhhuuloan1.jpg


Nhà thơ Hữu Loan và người vợ sau, bà Phạm Thị Nhu.


Sau này ông kết duyên và sống trọn đời với người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu.

“Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm” - có lần Hữu Loan kể như thế.

Giờ đây ông ra đi sau gần một thế kỷ ở dương thế, nơi mà dấu chân ông đã in suốt chiều dài của cuộc sống thăng trầm nhuộm tím màu hoa sim, về với cõi mộng mơ để rồi lại bước tiếp:

“Qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt…”.

Theo VTC.vn

Theo _www.ktdt.com.vn






https://www.youtube.com/watch?v=P3Ipm__XhMI&index=1&list=RDP3Ipm__XhMI






.

Quốc Hoàng
06-10-2016, 18:53
.


Những dòng tự sự
của nhà thơ Hữu Loan



Xã hội đã đẩy nhà thơ đến tận cùng của sự đau đớn, khốn khổ. Mọi việc bắt đầu từ bài thơ “Màu tím hoa sim”. “Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…



https://1.bp.blogspot.com/-gybuq-c9QAo/VxC-n9BDkqI/AAAAAAAAE-Q/9vjM_wAxyocRaxsPO5lRMkF6moqbZabgQCLcB/s640/HOASIM.jpg (https://1.bp.blogspot.com/-gybuq-c9QAo/VxC-n9BDkqI/AAAAAAAAE-Q/9vjM_wAxyocRaxsPO5lRMkF6moqbZabgQCLcB/s1600/HOASIM.jpg)

MÀU TÍM HOA SIM

Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.

Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!

Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...

Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...

Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.

Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...


Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.

Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.

Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu

HỮU LOAN

“Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý...

“Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo.”.

Nhà thơ qua đời ở tuổi 94 (1916 - 2010). Đến cuối đời, ông vẫn sống trong khốn khó nhưng vẫn không bao giờ thỏa hiệp với cái ác, cái xấu…..

Cái gì làm cho ông sống trong cõi đời long đong, lận đận này như vậy ? Đó hẳn là tình yêu vô bờ của ông đối với bà Lê Đỗ Thị Ninh, nguyên mẫu trong bài thơ “Màu tím hoa sim” và bà Phạm Thị Nhu, người đàn bà sâu sắc và cũng từng là nạn nhân trong thời cải cách ruộng đất?

Rơi nước mắt vì tự sự đớn đau của cha đẻ 'Màu tím hoa sim'

Những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ "Màu tím hoa sim nổi tiếng" đã tạo ra niềm xúc động lớn trong với cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức.

"Rất cảm động, vì sự chân thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch sử"
- (Kim Dung)

Những người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ "Màu tím hoa sim đầy xúc động". Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau đáu hơn của tác giả Hữu Loan.

Xin trích đăng những dòng tự thuật của chính nhà thơ Hữu Loan:

"Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Đến năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên.

Ở Thanh Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.

Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.

Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”.

Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt ….

Có lần tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…

Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý:

“Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu”

Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì.

Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

- Thầy có thích ăn sim không ?

Tôi nhìn xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…

Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.

- Thầy ăn đi.

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:

- Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến.

Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa.

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ …

Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi.

Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”.

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.

Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng.

Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.

Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại…..

Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!

Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi. Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn…

Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép.

Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

“Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang xanh…” Tôi về không gặp nàng…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.



https://2.bp.blogspot.com/-dvA9K7ZByVs/VxC_JkzBH_I/AAAAAAAAE-Y/GUuoWYe-wC0bO2Ycg6pITfINjlfi8elRACLcB/s640/hoa_sim_dep__2%25281%2529.jpg (https://2.bp.blogspot.com/-dvA9K7ZByVs/VxC_JkzBH_I/AAAAAAAAE-Y/GUuoWYe-wC0bO2Ycg6pITfINjlfi8elRACLcB/s1600/hoa_sim_dep__2%25281%2529.jpg)



Đó là bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn – nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu :

“Chiều hành quân, qua những đồi sim… Những đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều... Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá!

Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…

Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…

Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý...

Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo.

Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản...

Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa.

Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước.

Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .

Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách.

... Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc....

Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.

Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!

Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ...

Năm 1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.

Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.

Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".


Nhà Thơ Hữu Loan
_http://kim-chi-blog1.blogspot.com/

Quốc Hoàng
06-10-2016, 19:53
.


Hữu Loan: Một tài thơ nổi bật – Một nhân cách lồng lộng
Nhật Hiên



https://haibatrung12e1985.files.wordpress.com/2013/10/huu-loan1.jpg?w=824




Sau khi Thi Sĩ Hữu Loan từ trần vào ngày 18.3.2010, báo chí trong và ngoài nước cũng như trên các trang blog cá nhân đã viết về ông, bày tỏ lòng thương tiếc và ngưỡng mộ sâu sắc.

Tài năng và nhân cách

Trên văn đàn Việt Nam từ xưa đến nay, không có ai như ông, một cuộc đời khổ nạn đến vậy và cũng chẳng mấy ai được mọi người thật sự quý trọng như ông, cả về tài năng lẫn nhân cách.

Trang bauxitevietnam đã đưa tin về sự ra đi của ông như sau:

Được tin nhà thơ Hữu Loan, tác giả Màu tím hoa sim và Đèo Cả nổi tiếng vừa qua đời ngày 18/3/2010 tại quê nhà ở Thanh Hóa, thọ 94 tuổi, bauxitevietnam xin bày tỏ lòng tiếc thương sâu sắc và kính cẩn nghiêng mình trước nhân cách lồng lộng của một nghệ sĩ và một “Con Người”




.https://haibatrung12e1985.files.wordpress.com/2013/10/huu-loan-1.jpg?w=824

0
0:00

Vâng, trên cuộc đời ô trọc này đã có mấy ai xứng đáng được gọi là một “Con Người” viết hoa như ông?

Mục điểm blog tuần này xin được điểm lại những bài viết, cái nhìn của mọi người, từ các nghệ sĩ, nhà văn nhà thơ cho đến những người bình thường không liên quan đến văn hóa nghệ thuật, về nhà thơ Hữu Loan.

Người nghệ sĩ muốn được người ta nhớ đến trước hết phải bằng tài năng thực sự của mỉnh trong lĩnh vực mà mình đeo đuổi. Hữu Loan, trước hết, là một tài năng thơ thật sự, một giọng thơ độc đáo, không lẫn vào với bất cứ ai.

Chỉ riêng một bài thơ Màu tím hoa sim, đã có bao nhiêu bài viết của người trong nghề cũng như người ngoài, phân tích, ca ngợi. Được các nhạc sĩ khác nhau phổ nhạc như “Những đồi hoa sim” (Dzũng Chinh), “Chuyện hoa sim” (Anh Bằng) và nhất là “Áo anh sứt chỉ đường tà” (Phạm Duy), bài thơ đã vượt không gian, thời gian đi vào lòng người để trở thành một trong những bài thơ tình bất hủ của thi ca Việt Nam. Và đây cũng là bài thơ duy nhất cho đến giờ phút này của Việt Nam được một công ty tư nhân, công ty Cổ phần Công nghệ Việt mua bản quyền với giá 100 triệu đồng thời điểm năm 2004.

Ngoài bài thơ này, trong đời thơ của mình, Hữu Loan còn có khoảng trên dưới 30 bài nổi tiếng nữa. Không nhiều nhưng bài nào cũng có giá trị, sức nặng của nó.

Phân tích về tài thơ của ông thì nhiều, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên viết:

“Ông là một nhà thơ đích thực của nền thơ hiện đại Việt Nam. Ðích thực bởi thơ. Chỉ bằng hai bài Màu tím hoa sim và Ðèo Cả, Hữu Loan đã ghi danh mình cho thơ Việt ở sự riêng tư và mới mẻ.”

Và:

“Hai bài thơ khắc ghi dấu ấn rất riêng của Hữu Loan vào một thời thơ. Thơ, chứ không phải cái gì khác, đã làm nên Hữu Loan, đã vinh danh ông. Những nhát thơ Hữu Loan đục vào thời gian, đục vào tâm khảm, để lại dấu tích không phai…”

Nhà phê bình Đặng Tiến nhận định:

“Hữu Loan là khuôn mặt văn học đặc biệt trong nền thi ca đương đại từ hơn 60 năm nay.”

Tác giả kết luận:

“Người xưa có câu ‘cái quan định luận’: đóng nắp quan tài, mới định luận được phẩm giá một người. Ngày nay sự việc có phần phức tạp hơn. Nhưng với Hữu Loan qua cuộc đời dài non thế kỷ, sôi nổi, khói lửa, trầm luân, đánh giá từ đâu, kiểu gì đi nữa thì chúng ta đều phải công nhận hai nét son : tài hoa và tiết tháo.”

Không khuất phục

Song cái để mọi người nhớ đến nhà thơ Hữu Loan chính là nhân cách của ông, dám sống thật với những cảm xúc, suy nghĩ của mình, thà chấp nhận một cuộc đời khổ hạnh chứ không khuất phục cường quyền, không chấp nhận thỏa hiệp với cái xấu, cái ác, không làm thơ theo đơn đặt hàng hay những bài tuyên truyền sáo rỗng dối trá…

Có mấy ai dám làm như ông bỏ hết về quê thồ đá, làm ruộng, nuôi vợ nuôi con thành người?

Mọi người viết về nhà thơ Hữu Loan:

Khi Hữu Loan nằm xuống, nhà báo Hà Sĩ Phu có hai câu đối khóc ông đồng thời khái quát cả cuộc đời, tính cách của nhà thơ:

Khóc vợ, có hoa tím phân ưu, tiếng khóc hóa lời ca, “thăm thẳm chiều hoang” thành bất tử !

Khinh vua, rủ đá xanh làm bạn, giọng khinh vào câu đối, “ăn dân hết nước” lại trường sinh?

Mỗi người, trong những bài viết của mình, có những hình tượng khác nhau, để khắc họa nên hình ảnh và con người Hữu Loan. Nhà thơ Nguyễn Thụy Kha gọi ông là “người đi bộ ngược chiều”. Tác giả viết:

“Màu tím hoa sim qua giai điệu của Phạm Duy trở thành Áo anh sứt chỉ đường tà. Không hiểu sao nhiều người lính cứ thầm nghêu ngao câu nhạc “Áo anh sứt chỉ đường tà, Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu…”

Hóa ra “màu tím hoa sim” là cảnh ngộ của nhiều người lính trên trái đất này trong chiến tranh.

Ở Việt Nam, Hữu Loan là người phát ngôn bi kịch ấy bằng thơ đầu tiên. Một bài thơ xuất thần được trả giá bằng cái chết đau thương của chính vợ nhà thơ – bà Lê Đỗ Thị Ninh. Và với việc phát ngôn bi kịch này, ngược với cách tuyên truyền tụng ca ngày đó, Hữu Loan đã chính thức là “người đi bộ ngược chiều” trong nhiều năm tháng của lịch sử văn học Việt Nam…”

Nhà thơ Nguyễn Duy gọi ông là “Người thơ bận việc làm người” xuất phát từ một câu chuyện sau: Hữu Loan kể vắn tắt về những năm tháng ông sống, cả trong kháng chiến, sau hòa bình và nhất là thời gian cực kỳ gian nan, lận đận ở chính quê nhà, sau khi ông bỏ Hà Nội về làng. Một cuộc đời thật ngang tàng, ngang trái mà cũng thật hiên ngang. Một cuộc đời tất tả, bận rộn. Chúng tôi hỏi, ông bận việc gì nhất? Ông thản nhiên trả lời:

“Bận việc làm người…"...

Câu trả lời của Hữu Loan cũng là cái tứ cho Nguyễn Duy viết bài “Thơ tặng cụ Tú Loan”:

Ngang tàng… ngang trái… nghênh ngang
Hồn sim tím một chiều hoang bên đời
Người thơ bận việc làm người
Một mai thánh hóa lên trời làm sao

Về phần mình, nhà thơ Hữu Loan từng tự nhận mình là cây gỗ vuông:

Tôi, cây gỗ vuông chành chạnh suốt đời
Ðã làm thất bại âm mưu đẽo tròn

Để muốn tùy tiện lăn long lóc thế nào thì lăn lóc. Từ đó, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẽ nên hình tượng ông:

“Cây gỗ vuông màu tím – đó chính là chân dung Hữu Loan đời và thơ.”

Tác giả Tiêu Dao Bảo Cự cũng sử dụng hình ảnh này trong bài viết tiễn đưa ông:

“Hữu Loan-cây gỗ vuông chành chạnh”, những dòng chữ đầy xót xa cho một tài năng sinh bất phùng thời:

Nhưng 30 năm đó, kể từ ngày có vụ án văn nghệ gọi là “Nhân văn – Giai phẩm”, và 17 năm sau đó nữa, chẳng có ai dám viết, nói gì về chuyện của ông dù không ít người biết…

Một sự im lặng khủng khiếp không chỉ đè nặng lên riêng đời ông mà còn trói tay những người cầm bút và choàng phủ lên cả đời sống dân tộc. Ðó là sức mạnh, sức nặng ghê gớm của bạo lực và cường quyền, của nỗi sợ hãi và lòng hèn nhát, là bi kịch của một đất nước tự cho và cũng được phong tặng là đất nước anh hùng.

Trong hoàn cảnh đó, Hữu Loan đã chọn riêng cho mình một lối sống, dù nghiệt ngã nhưng đầy bi tráng. Như ông viết trong “Chuyện tôi về”:

“Tôi không làm nhà vì mắc làm người”, “Ði ăn cắp và làm cán bộ là tôi không đi…”.

Ông thà đi cuốc đất, đập đá và đẩy xe thồ suốt 30 năm để làm “Cây gỗ vuông chành chạnh” không cho ai lăn long lóc, trong khi bao nhiêu văn nghệ sĩ đồng thời với ông đã tha hồ để cho “tùy tiện bị lăn long lóc thế nào thì long lóc” ngoài đời cũng như trong văn học nghệ thuật.

Người đẽo đá ở núi Vân Hoàn

Có một chi tiết về cuộc đời của nhà thơ Hữu Loan được tác giả Tiêu Dao Bảo Cự kể lại trong bài viết nói trên:

Buổi chiều đầu tiên về thôn Vân Hoàn, thay vì đi thăm hỏi láng giềng ông cắp be rượu lên núi đá đầu thôn…Vốn có sức như trai lực điền, lại ở bước cùng, không thể ngồi ngâm thơ nhìn các con hết gạo, ông tưới rượu lên mặt đá mà thề sẽ bám đá để sống. Và thế là thi nhân trở thành người phu vác đá gần suốt cả cuộc đời. Nhà thơ Trần Tiến Dũng tâm sự trong bài “Thi nhân Hữu Loan-ngưởi đẽo đá ở núi Vân Hoàn”:

Hôm nay, nhận được tin ông vừa qua đời, hình ảnh của người thi nhân khổ nạn lại hiện lên tinh khôi lẫm liệt, và một cụm từ ray rứt khác cũng đeo bám lấy ý nghĩ tôi: Người thi nhân đẽo đá ở núi Vân Hoàn.Ở thời điểm cánh cửa thế kỷ 21 đã mở, toàn bộ hình ảnh tôi thu được về thi nhân Hữu Loan trong không gian sống của ông và gia đình, trong không gian ý thức của một thi nhân đã có đời sống sáng tạo vượt quá những giới hạn thông thường và những khổ nạn từ sáng tạo, trách nhiệm trí thức đã đưa ông đến một tầm vóc lộng lẫy hơn thời đại mà quyền lực thiếu lương tri đã từng tưởng rằng có thể nhận chìm ông.

Nhà thơ Trần Tiến Dũng cũng kể lại chuyện được bà Phạm thị Nhu, vợ nhà thơ Hữu Loan đọc cho nghe mấy câu thơ của cậu con trai Hữu Loan khi đó mới 12 tuổi nhưng đã biết làm thơ để xót xa bố cậu.

Bố ta đi xe cút kít
ò e ú ít
đũng chòe lỗ đít

Tác giả ngậm ngùi kết luận: Vĩnh biệt thi nhân Hữu Loan! Không chỉ bất tận mãi “màu tím hoa sim” trên đất nước này, mà sẽ mãi mãi còn đó hình ảnh làm đau mọi trái tim Việt Nam: Người đẽo đá ở núi Vân Hoàn.

Bên cạnh những bài viết của các nhà thơ nhà văn nhà phê bình là rất nhiều bài viết đăng trên các trang blog cá nhân của những người yêu mến và ngưỡng mộ nhà thơ. Qua những mẩu chuyện được kể, đã bộc lộ nhân cách lớn của nhà thơ và ảnh hưởng của nhân cách cũng như tài thơ ấy đến người viết.

Nhà báo Phạm Thành trong bài “ Hữu Loan sống một mình ở hành tinh chết xa xôi?” thì kể từ năm 1975 đã được nghe bài hát “Màu tím hoa sim” do Khánh Ly hát nhưng lúc đó “Có lẽ chúng tôi còn trẻ, và vừa ở trên rừng về, và lại đang phấn khích trong hào khí chiến thắng, nên chưa thể hiểu được những cái đau nội tâm đứt ruột trong cuộc đời, đâm ra thờ ơ vô cảm trước ngôn ngữ sâu thẳm bên trong của bản nhạc. Nhiều năm sau, khi được biết tác giả bài thơ thuộc nhóm phản động, chống Đảng Nhân Văn Giai Phẩm thì sợ không dám tìm hiểu.

Mãi cho đến những năm 1990, nhân việc Nhà nước đổi mới và những nhân vật Nhân văn – Giai phẩm được nới lỏng, tôi mới được dịp đọc toàn bộ bài Màu tím hoa sim và hiểu thêm về tác giả…Một điều thật lạ lùng, ngay từ lần đọc đầu tiên sau ngày được phép tiếp cận với toàn bộ tác phẩm, tôi đã đọc một mạch và đã khóc. Và từ năm 1990 đến nay, mỗi năm ít nhất tôi đọc lại một lần. Lần nào cũng vậy, lòng tôi đều rung lên, mắt tôi nhòe lệ… Có lẽ, với riêng tôi, cái hay của Màu tím hoa sim là ở chỗ “tôi được khóc”. Bài thơ ông khóc vợ ông mà như vắt ra từ chính cõi lòng của tôi vậy.”

Nghệ thuật vốn dĩ công bằng

Blogger Dr. Nikonian viết:

“Đời bác ấy “nhàu nát như bìu” (chữ của Nguyễn Huy Thiệp). Nhưng chính trong sự oan khiên đó, người đập đá Hữu Loan sẽ sống mãi với hậu thế. Sẽ còn rất nhiều năm sau, người ta sẽ nhắc đến cái tên Hữu Loan với lòng kính trọng và thương xót.”Trong bài “Nhà thơ Hữu Loan đã ra đi” của tác giả TTNH đăng trên trang blog của nhạc sĩ Tuấn Khanh kể lại một chi tiết về nhà thơ Hữu Loan: “…tôi cố nhớ lại những giây phút ngắn ngủi bên ông vào một ngày giữa đông tháng 11 năm 2009. Ông nằm xuống khi chúng tôi chuẩn bị chào ông. Tôi cúi xuống, nắm lấy bàn tay của ông, ánh mắt đã tắt nắng từ lâu, chỉ còn bàn tay giữ chút nóng ấm, ông thì thào:

"Cám ơn cô đã ghé thăm’, tôi hỏi ‘ông có lời khuyên gì cho cháu không?’

– ‘Đừng thỏa hiệp với cái ác- xấu!’. Tôi nghẹn lòng.

”Những giá trị thật rồi sẽ còn lại mãi với thời gian cho dù có bị dập vùi. Theo thời gian, tài thơ của Hữu Loan và nhân cách của ông đã được người đời thừa nhận, cho dù chính quyền chưa bao giờ thừa nhận ông, cũng chưa bao giờ có một lời xin lỗi chính thức đến ông và những nhà thơ nhà văn khác bị hoạn nạn thời Nhân Văn Giai Phẩm.

Không chỉ riêng vụ Nhân Văn Giai Phẩm mà biết bao nhiêu tài năng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật đã phải bị bào mòn, lụi tàn đi trong suốt mấy mươi năm sống dưới một thời kỳ khắc nghiệt, phải tự gọt mình đi, đẽo tròn đi để phục vụ cho nhiệm vụ tuyên truyền chính trị là chính.

Nếu Hữu Loan sống trong một thời kỳ khác hoặc nếu Hữu Loan có một cá tính khác thì cuộc đời ông chắc chắn sẽ khác, như nhà báo Phạm Thành viết: “Nếu ông như mọi người, nhất định ông sẽ thành ông lớn. Con ông, mười đứa, chứ có 20, 30 đứa, hẳn cũng sẽ là những đại gia của thời đổi mới này rồi…” Hoặc như tác giả Tiêu Dao Bảo Cự nhận xét:

“Lẽ ra ông đã có một cuộc sống khác. Một nhà thơ tài hoa, một trí thức, một chiến sĩ cách mạng dày dạn, từ thời khởi nghĩa chống Pháp giành chính quyền mới hơn 20 tuổi đã phụ trách 4 ty của tỉnh, một cán bộ tuyên huấn sư đoàn xuất sắc… đúng ra phải có vị trí xứng đáng và cuộc sống tốt hơn so với bao nhiêu người bất tài đang nắm giữ chức quyền và sống xa hoa phung phí hiện nay.”

Nhưng ông đã chọn “Sự lựa chọn đó là một lựa chọn sinh tử và đã phải trả gía đắt, đắt bằng sự khốn cùng của đời người, bằng một vết nhơ lớn trong lịch sử dân tộc. Khi tôi hỏi về chữ Tâm treo trên bàn thờ, Hữu Loan bảo chính tay ông viết và suốt đời ông chỉ thờ một chữ Tâm.”

Tôi chợt nhớ đến những điều ông nói trong chuyến đi xuyên Việt năm xưa mà tôi đã ghi lại trong bút ký “Hành trình cuối đông”:

“Cái tâm mới là điều quan trọng trong văn học. ‘Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài’. Sai lầm của chế độ là đã đề cao giai cấp tính, đến chỉ còn đẳng cấp thống trị. Giai cấp tính không bằng nhân đạo tính.”

Cuối cùng, xin mượn câu kết trong bài viết của tác giả TTNH để kết lại bài điểm blog tuần này:

“Chúng ta hãy cùng chúc mừng cho người thi sĩ đáng kính và nhớ, và sống cố gắng như lời ông nói: Đừng bao giờ thỏa hiệp với cái ác – xấu.”


Theo RFA
_https://giadinhhoangtrong.wordpress.com

Quốc Hoàng
06-10-2016, 19:54
.


Con nhà thơ Hữu Loan kể về cha



http://caotraonhanban.org/images/stories/2010/news/huu-loan-VoChong.jpg

Vợ chồng nhà thơ Hữu Loan

Hữu Loan ra đi trong sự im lặng của truyền thông nhà nước. Những tờ báo có xu hướng cởi mở hơn như VxExpress, Thanhnien, Dantri v.v. có đưa tin về cái chết của ông nhưng trong một chừng mực khá dè dặt. Người ta kể về cuộc đời khốn khó của ông nhưng không đề cập tới nguyên nhân của sự khốn cùng đó. Nhắc tới những năm tháng vất vả của ông, nhưng không nhắc tới Nhân Văn Giai Phẩm hay Cải Cách Ruộng Đất v.v. Mặc dù né tránh đề cập thẳng tới những vấn đề tế nhị, những bài viết này cũng diễn tả khá chân thực cuộc đời Hữu Loan.

Sau 95 năm tồn tại nhọc nhằn nhưng rắn rỏi giữa cuộc đời, “cây gỗ vuông chành chạnh của” đất Nga Sơn đã nằm xuống, nhẹ nhàng và thanh thản, để lại cả một pho chuyện kể, thật nhưng lạ kỳ như huyền thoại, về một lão thi nhân luôn “bận làm người”.

Dưới đây là câu chuyện về tác giả Màu tím hoa sim từ những ký ức sống động của anh Nguyễn Hữu Đán – con trai nhà thơ.
(Đàn Chim Việt)

Sinh năm 1969, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Đán là con trai thứ tám trong số 10 người con của thi nhân. Tuy sinh sau đẻ muộn, nhưng trong trí nhớ của anh, tuổi thơ khốn khó và hình ảnh người cha lầm lụi kiếm gạo nuôi con vẫn là những ám ảnh khôn nguôi.

Anh Đán kể:

“Thời đó, nhà nào cũng khổ, nhưng bố mẹ tôi rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo hơn, vì gia đình sống ngoài hợp tác, hầu không có tem phiếu, gạo thịt”.

10 đứa con của vợ chồng thi nhân lần hồi lớn lên bằng những chuyến xe kĩu kịt đá của bố và những mớ bánh chui nhủi của mẹ – bà Phạm Thị Nhu. Chính sách hồi đó cấm nghiêm ngặt việc chế biến, buôn bán, giết mổ. Để có mỡ làm bánh, gia đình nhà thơ từng phải nuôi chui một con lợn trong chuồng kín. Lúc giết thịt, để ngăn tiếng kêu của con vật, ông phải trộn tro và ớt đổ cho lợn bị sặc, rồi cho vào bao tải, ngâm xuống ao cho đến lúc chết hẳn rồi mới giết. Làm ra mớ bánh, gánh bún là bao nhiêu nhọc nhằn, lam lũ của hai vợ chồng nhưng không phải lúc nào gánh quà của bà Nhu cũng đông buổi chợ.

“Những hôm phòng thuế bắt chợ, cũng như người ta, gánh bún của mẹ tôi bị hắt xuống hào. Thương con, xót của, mẹ tôi lội xuống, bốc về. Bố tôi đãi nước cho hết cát để cả nhà ăn trừ bữa. Nhà đông miệng ăn, gạo thường phải trộn thêm rau, nấu thành cháo, ưu tiên chia phần theo thứ tự từ đứa bé đến đứa lớn. Nhà tôi giờ vẫn còn giai thoại về những người anh húp cháo nóng rất nhanh”, kể đến đây, anh Đán miệng cười, nhưng mũi ửng đỏ, đôi mắt, sau cặp kính trắng, dường như không dám chớp mi. Người đối diện, chỉ còn cách cũng vờ nhìn quanh quất, để giúp anh ngăn dòng nước mắt, bước qua một trong muôn vàn đoạn ký ức khó nhọc chưa chịu phai mờ.

10 đứa con đã lần lượt lớn lên, tưởng như trời sinh voi, hẳn phải sinh cỏ. Nhưng theo anh Đán, anh chị em anh đã thành người bởi họ có một người cha kiên cường và một người mẹ biết chắt chiu, tần tảo. Thi sĩ Nga Sơn, ban ngày mòn vai, chai chân thồ đá, ban đêm còn vác te vó, xiếc tép nuôi con. Đất nhiều, vườn rộng, ông chịu khó trồng rau, trồng sắn, để tháng ba ngày tám, phòng lúc đói có sẵn cái để đào lên cho các con ăn.

Ngoài sự thiếu thốn, cực nhọc về vật chất, nhà thơ Hữu Loan, theo con trai ông, còn phải chịu đựng nỗi khổ về tinh thần, trước sự nhiếc móc của họ hàng vì cách sống thẳng thắn và khẳng khái của ông. Tuy vậy, anh Đán khẳng định, 10 anh em anh chưa từng trách móc, hờn giận bố về lựa chọn của ông. Ngược lại, họ tự hào vì trong mỗi đứa con, dù ít dù nhiều đều thừa hưởng sự tài hoa và tính cách trung thực, thẳng thắn để trưởng thành.

Nghèo khổ, vất vả nhưng con cái của nhà thơ Hữu Loan đều có tư chất và năng lực. Sự đỗ đạt của những đứa con là niềm hạnh phúc của mọi bậc cha mẹ, nhưng với riêng nhà thơ Hữu Loan, mỗi lần con đỗ đạt là một lần ông nhọc lòng, day dứt. Khi con trai cả của nhà thơ – anh Nguyễn Hữu Cương – đủ điểm đi học ở Liên Xô nhưng không nhận được giấy báo, nhà thơ đành bất lực để con bỏ dở đường học hành, đi làm thợ. Đứa con gái thứ hai đỗ Sư phạm, cũng không nhận được giấy báo. Lần này, thương con, ông quyết tìm ra ngọn ngành. Nhà thơ lên Ty giáo dục huyện, huyện bảo xuống xã. Về xã, xã bảo lên huyện. Năm lần bảy lượt như thế. Cuối cùng ông xông thẳng vào Ty giáo dục huyện tìm bằng được giấy báo cho con. Nay con gái thứ hai của nhà thơ là giáo viên dạy học ở quê.

Trong số 10 người con của Hữu Loan, anh Nguyễn Hữu Đán là người thành đạt nhất. Tốt nghiệp PTTH, anh ở nhà mở xưởng cơ khí đỡ đần bố mẹ và các anh em. Sau 5 năm làm thợ, anh ôn thi và đỗ vào trường kiến trúc. Bây giờ, anh đã có cả một cơ ngơi và là chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần bảo tồn di sản văn hóa kiến trúc Việt.

Khi đã có điều kiện, anh muốn làm mua sắm mọi thứ, để bù đắp cho cả cuộc đời thiếu thốn của bố mẹ. Nhưng những con người đã quen dành dụm, chắt chiu, đã quen khổ cực dường như vẫn không muốn thay đổi nếp sống của mình.

“Bố tôi vẫn vậy, ăn uống rất thanh cảnh. Ông hầu như không ăn thịt, chỉ ăn ít cá và rất thích rau, dưa, hay chuối xanh chấm mắm tôm. Mẹ tôi đến giờ vẫn cặm cụi giữ từng chiếc đũa sờn, vá từng chiếc thúng rách”, anh Đán kể.

Theo đuổi công tác bảo tồn di sản, anh Đán ý thức rất rõ, nhiệm vụ lớn nhất của anh là bảo tồn di sản của bố mình. Hiện tại, anh đã sưu tầm được một số bản thảo, gồm câu đối, thơ, trường ca và thơ dịch. Anh dự định xuất bản một tuyển tập, viết hồi ký về bố và xây một nhà lưu niệm nhỏ về nhà thơ tại chính nơi ông đã gắn bó gần như cả cuộc đời mình.

Trở lại với cái chết của nhà thơ, anh Nguyễn Hữu Đán cho biết, thi nhân ra đi rất thanh thản. Trước đó vài hôm, ông còn âu yếm đùa vui với người vợ hồn hậu.

“Vài ngày trước khi mất, bố gọi mẹ vào ngồi cạnh giường. Mẹ tôi lóng ngóng ngồi cả vào chân bố bị khuất dưới lớp chăn. Ông trìu mến càu nhàu: ‘Sao đã sống với tôi cả 50 – 60 năm mà bà còn đè cả vào chân tôi thế này”. Khi mẹ tôi hỏi: ‘Ông có thương tôi không?’, bố tôi trả lời: ‘Tôi không thương bà thì thương ai’”, anh Đán kể.

Nhà thơ Hữu Loan gọi mình là “cây gỗ vuông chành chạnh”. Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi Hữu Loan là “Ông Từ Thức Nga Sơn”. Còn với các con của nhà thơ, ông trước hết và trên tất cả, là người chồng, người cha, đã để lại cho vợ cùng 10 người con, 37 đứa cháu không chỉ di sản thơ ca mà cả một nhân cách sống.


Nguồn: Đàn Chim Việt 29-3-2010
_quehuongta.com