PDA

View Full Version : Tìm hiểu Luật Khánh Tận mới (Bankruptcy)



saigonman
10-05-2015, 19:45
Đạo luật BAPCPA được đặt dưới sự giám sát thi hành của một ủy ban có tên “United States Trustee Program” trực thuộc Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ. Ủy ban có nhiệm vụ bảo vệ sự toàn vẹn của hệ thống Luật Khánh Tận Quốc Gia qua việc giám sát cả hai khía cạnh hành chánh lẫn pháp lý trong các vụ khai phá sản trên toàn quốc để bảo đảm luật pháp được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh. Tổng quát ra ủy ban này có nhiệm vụ áp dụng một phương pháp gọi là “Trắc Nghiệm Trung Bình” (The Mean Test) để xác định mức lợi tức của người muốn khai phá sản nếu hội đủ điều kiện khai theo chương 7 xin xóa sạch nợ hay theo chương 13 xin trả nợ dần.

Ngoài ra ủy ban còn có trách vụ kiểm tra bất chợt các hồ sơ khai hoặc theo dõi những vụ nghi ngờ để chắc chắn rằng những chứng từ khai theo chương 7 đều hợp lệ và chính xác. Ủy ban này còn chuẩn y cho các cơ sở cố vấn tín dụng (Credit Counseling Agency) giúp ý kiến cho bất cứ ai trước khi nộp đơn khai phá sản; cùng các trường huấn luyện tài chánh (Debtor Education Provider) cho người sắp được giải nợ.

Tóm lại theo luật mới trước hết muốn khai khánh tận người nợ phải đi lấy ý kiến cố vấn tín dụng trước khi nộp đơn ra tòa. Tiếp đó trước khi được xóa nợ người ấy còn phải học hỏi cách tính toán tiền bạc (budgeting) và điều hành nợ nần (debt management). Những người thuộc giới có lợi tức cao từ nay sẽ không còn được khai phá sản theo chương 7 mà thay vào đó sẽ phải trả lại một phần nào tiền nợ theo chương 13. Thêm một nỗi khó khăn nữa, vì lý do luật mới áp đặt nhiều điều kiện gắt gao cho các luật sư cho nên việc tìm ra luật sư thay mặt cho mình trong các vụ khai phá sản cũng không còn dễ dàng như trước.

Sau đây là chi tiết về những thay đổi quan trọng của luật khánh tận:

Bắt buộc cố vấn (counseling requirements) - Trước khi khai phá sản dù theo chương 7 hay chương 13, người khai phải hoàn tất thủ tục tham vấn tín dụng với một cơ sở được “United States Trustee Program” chuẩn y. Muốn tìm văn phòng của các cơ sở này tại địa phương thì có thể vào trang webside www.usdoj.gov/ust và chọn đề mục “Credit Counseling and Debtor Education.” Mục đích của việc tham vấn là giúp cho người nợ tìm hiểu xem có thật sự cần khai phá sản hay không hoặc chỉ cần đến một chương trình trả nợ không chính thức; nhưng có thể giúp cho đương sự thoát khỏi nợ nần mà khôi phục lại được tình trạng tài chánh của mình.

Điều kiện đi tham khảo ý kiến của cố vấn tài chánh là bắt buộc cho dù việc dàn xếp trả nợ không thể thi hành được hoặc gặp những món nợ mà người nợ cảm thấy bất công không muốn trả. Việc tham khảo cố vấn là hình thức người nợ phải dự, tuy nhiên không bị bắt buộc phải theo bất cứ chương trình trả nợ nào mà cơ sở cố vấn đề xướng ra. Trường hợp nếu cơ sở này đề nghị một chương trình trả nợ thì người nợ vẫn phải đem ra trình tòa cùng với chứng chỉ xác nhận đã hoàn tất thủ tục tham vấn trước khi chính thức nộp đơn khai phá sản.

Sau khi vụ khai đã chấm dứt, đương sự lại còn phải tham dự một khóa học khác, nhưng lần này để huấn luyện về cách quản trị và điều hành tiền bạc cá nhân. Sau khi thụ huấn xong đương sự phải nộp chứng chỉ hoàn tất cho tòa án, sau đó tòa mới cấp án lệnh tuyên bố giải nợ hoặc cho dàn xếp trả nợ.

Hạn chế quyền khai phá sản theo chương 7 - theo luật cũ thì người xin phá sản có quyền tùy ý lựa chọn xin khai theo chương nào thích hợp nhất với hoàn cảnh của mình mà phần đông thường khai theo chương 7 để được rũ sạch nợ hoàn toàn mà làm lại cuộc đời. Trái lại luật mới đặt mức hạn chế cấm không cho người nợ có lợi tức cao khai phá sản theo chương 7 mà bắt buộc phải khai theo chương 13.

Như vậy lợi tức là bao nhiêu thì bị coi là cao? Theo luật mới, bước đầu tiên trong việc xác định điều kiện khai theo chương 7 là so sánh “lợi tức hiện tại hàng tháng” (“current monthly income”) với “lợi tức trung bình” (“median income”) mà chính phủ đã định đối với từng cỡ gia đình tại tiểu bang cư trú. Tuy nhiên mức “lợi tức hiện tại hàng tháng” không phải là lợi tức của người ấy tính ngay lúc khai. Mức này là tổng số lợi tức sáu tháng liên tục trước khi khai chia cho sáu. Đối với nhiều người nhất là đối với những người khai phá sản vì bị thất nghiệp thì “lợi tức hiện tại hàng tháng” tính theo luật này sẽ cao hơn hẳn số tiền thực sự người này lãnh được vào thời điểm khai khánh tận, thí dụ tiền thất nghiệp của tiểu bang cấp phát.

Luật khánh tận qui định hai mẫu chính thức Bankruptcy Forms B22A và B22B (Statement of Current Monthly Income and Calculations). Mọi người muốn khai phá sản đều bắt buộc phải điền mẫu B22A dùng cho chương 7 với mục đích thử “Trắc Nghiệm Trung Bình” (The Mean Test); còn mẫu B22C dùng cho những người khai theo chương 13 xin trả nợ dần. Người khai phải điền vào mẫu mọi chi tiết về lợi tức và chi phí rồi làm tính theo chỉ dẫn.

Sau khi đã tính xong lợi tức thì đem so sánh với bảng “lợi tức tiêu chuẩn” (Median Income) của tiểu bang đang cư ngụ với tin tức lấy từ Sở Thống Kê (Census Bureau) và cơ quan thuế vụ IRS. (Quí vị có thể tìm bảng “lợi tức tiêu chuẩn” theo từng tiểu bang tương ứng với số người trong gia đình trong webside www.usdoj.gov/ust nêu trên của “United States Trustee Program” và chọn đề mục “Mean Testing Information”).

Nếu lợi tức đã tính của người ấy kém hoặc bằng với “lợi tức tiêu chuẩn” thì có thể khai phá sản theo chương 7. Nếu lợi tức nhiều hơn tiêu chuẩn thì phải theo một qui định khác của đạo luật BAPCPA rồi mới được khai chương 7.

“Trắc Nghiệm Trung Bình” (The Mean Test) - Mục đích của trắc nghiệm này là tính xem người khai liệu có đủ lợi tức thanh toán được (disposable income) sau khi trừ đi một vài loại chi phí cùng với những số tiền nợ bắt buộc phải trả, như đã được qui định chương trình trả theo chương 13.

Để biết có vượt qua được trắc nghiệm này không, người nợ khởi đầu phải tính ra “lợi tức hiện tại hàng tháng” như đã đã cập ở trên. Từ con số lợi tức này sẽ trừ ra hai khoản tiền sau đây:

(1) Những khoản chi phí được sở thuế IRS qui định - Tổng quát ra người nợ không được phép trừ những khoản chi phí thực sự như tiền chi xe cộ di chuyển, thực phẩm, quần áo v.v... thay vào đó người ấy phải tính theo tiêu chuẩn của IRS đã đề ra mà chắc chắn sẽ thấp hơn chi phí thật sự để sinh sống tại địa phương.

(2) Tiền trả hàng tháng dành cho nợ cầm thế (secured debts) và nợ ưu tiên (priority debts) - Nợ cầm thế là nợ dùng tài sản để bảo đảm cho món nợ, theo đó chủ nợ có quyền xiết vật bảo đảm đó nếu không trả đúng như giao kết, thí dụ như nợ nhà và nợ xe. Nợ ưu tiên là những bổn phận luật định quan trọng nên phải ưu tiên trả hàng đầu trong tất cả các món nợ. Điển hình loại nợ này là tiền chu cấp cho con cái, tiền chu cấp cho vợ cũ, nợ thuế và lương bổng còn thiếu nhân viên làm công cần phải thanh toán ngay.

Theo Luật Khánh Tận, nếu người khai có tổng số lợi tức sử dụng được (disposable income) sau khi trừ ra các khoản chi phí đã qui định trên, nếu chỉ còn lại dưới $100 Mỹ kim thì trúng tuyển “Trắc Nghiệm Trung Bình” và đủ điều kiện khai theo chương 7 để được hoàn toàn giải nợ. Nếu số tiền còn lại trên $166.66 Mỹ kim thì bị loại với kết quả cấm không được khai phá sản theo chương 7 mà bắt buộc phải theo chương 13.

Những người có kết quả ở mức giữa $100.00 và $166.66 thì phải làm thêm vài tính toán nữa. Người ấy phải tính xem số tiền còn lại có đủ để trả thêm 25% các khoản nợ không thế chân hay nợ không có ưu tiên trong thời hạn năm (5) năm (thí dụ như nợ thẻ tín dụng, nợ tiền vay đi học, tiền trả cho nhà thương v.v...). Nếu tính ra có tiền trả thì cũng kể như hỏng trắc nghiệm và phải khai theo chương 13 xin trả nợ dần. Ngược lại nếu tính ra không đủ khả năng trả như vậy thì được khai phá sản theo chương 7.

Luật mới đưa đến thêm vấn đề khác vì các qui định khó khăn, rắc rối nên rất tốn kém. Luật sư đại diện thân chủ trong vụ khai phá sản phải mất khá nhiều thì giờ và công sức hơn có nghĩa là lệ phí sẽ tăng. Ngoài ra luật mới còn ra nhiều điều kiện gò bó các luật sư, khó nhất là bắt buộc luật sư phải bảo đảm hoàn toàn chịu trách nhiệm cá nhân về mọi lời khai do thân chủ cung cấp. Điều này có nghĩa là luật sư phải tốn thêm thời gian truy cứu đưa đến kết quả miễn cưỡng tăng thù lao tương ứng. Nhiều chuyên gia tiên đoán rằng với kết hợp mọi khó khăn do luật mới rồi đây sẽ đưa đến tình trạng một số luật sư chuyên môn luật khánh tận phải chuyển sang ngành khác.
Để giúp quý độc giả có ý niệm về sự áp dụng luật mới ra sao, trước hết chúng tôi xin tóm lược căn bản luật khánh tận trước khi phân tích những điều kiện cần thiết để được khai phá sản. Đây một thủ tục theo luật liên bang Hoa Kỳ do Quốc Hội tạo ra nhằm mục đích giúp cho các tư nhân hay cơ sở thương mại có cơ hội rũ sạch nợ nần hoặc trả nợ dần dưới sự bảo vệ của chính quyền. Khai phá sản thường được mô tả hoặc là “giải” (“liquidation”) hay “tái tổ chức” (“reorganizations”) tình trạng nợ nần.

Chương 7 của Bộ Luật Khánh Tận áp dụng để “giải” nợ như định nghĩa ở trên theo đó tài sản của người khai phá sản sẽ được đem bán (giải quyết) để lấy tiền trả nợ càng nhiều càng tốt, nhưng đồng thời cũng được giữ lại một phần tiền đủ cho người phá sản có phương tiện khởi sự làm lại đời mới. Theo chương 7 nếu một cá nhân nộp đơn tới tòa xin xóa nợ thì được gọi là “khánh tận cá nhân,” còn một cơ sở thương mại xin giải nợ thì được gọi là “khánh tận thương mại.” Một vụ khai phá sản theo chương 7 thường kéo dài từ ba tới sáu tháng.

Khai phá sản theo chương 7 thì một số tài sản cá nhân phải đem bán đi để trả bớt nợ. Bù lại phần lớn các khoản nợ không có thế chấp (tức là nợ không bị buộc một vật gì để bảo đảm) sẽ được xóa bỏ. Người khai vẫn được quyền giữ các tài sản được luật liên bang và tiểu bang liệt kê vào loại “miễn trừ” (exempt) thí dụ như quần áo, xe cộ hay đồ đạc trang bị nội thất (furniture). Nếu người khai không có nhiều đồ đạc thì có cơ hội được xếp vào loại “miễn trừ” (“exempt”) và vụ khai coi như “vô tài sản” (“no asset” case).

Nếu là nợ cầm thế, thí dụ như nợ tiền vay mua nhà hay xe, khi ký giao kèo vay tiền người mua bằng lòng lấy ngôi nhà hoặc chiếc xe bảo đảm cho món nợ. Trường hợp này người nợ có hai lựa chọn, hoặc để chủ nợ tịch thu nhà hay xe hoặc tiếp tục trả tiền hàng tháng nếu chủ nợ bằng lòng; hoặc trả hết cho chủ nợ một số tiền tương đương trị giá thị trường lúc đó. Không phải bất cứ ai cũng khai được chương 7. Thí dụ nếu người ấy có tổng số “lợi tức sử dụng được” (disposable income) sau khi trừ đi mọi chi phí có chấp thuận và trừ đi các khoản tiền nợ ưu tiên như tiền cấp dưỡng và nợ thuế hay nợ cầm thế mà tính ra còn nhiều hơn thì sẽ không được khai theo chương 7. Ngoài ra Luật Khánh Tận không có hiệu lực với vài loại nợ. Dù rằng khai phá sản có thể xóa rất nhiều nợ thí dụ như nợ thẻ tín dụng, nợ bệnh viện và các loại nợ không cầm thế khác, nhưng không thoát được nợ ưu tiên như tiền trợ cấp cho con và vợ cũ hay nợ thuế.

Chương 13 của Bộ Luật Khánh Tận áp dụng để “tái tổ chức” giúp đắc lực cho dân tiêu thụ được trả nợ dần trong vòng từ 3 tới 5 năm. Chương 13 dùng cho người có lương bổng (wage earner) bởi vì muốn trả nợ dần thì bắt buộc người nợ phải có nguồn lợi tức chắc chắn để thanh toán một phần nợ. Một điều kiện nữa, muốn xin phá sản theo chương 13, người khai phải có tổng số nợ cầm thế ít hơn 1,149,525 Mỹ Kim (MK) và nợ không cầm thế ít hơn 383,175 MK. Khi theo chương 13, người nợ sẽ đề nghị một lịch trình trả nợ rõ ràng và xác nhận làm cách nào thanh toán được trong vòng từ 3 đến 5 năm tới. Số tối thiểu phải trả sẽ tùy theo tiền kiếm được và nợ bao nhiêu, và mỗi chủ nợ không cầm thế đáng lẽ nhận được nếu khai phá sản theo chương 7. Người nợ cầm thế khai theo chương 13 sẽ có cơ hội trả bù những tháng còn thiếu để tránh không bị câu xe hoặc tịch thu nhà đất. Người nợ cũng có thể gộp luôn những tháng còn thiếu chưa trả vào chung một lịch trình trả nợ mới.

Ngoài chương 7 và chương 13 Luật Khánh Tận còn có chương 11 và chương 12. Chương 11 là loại phá sản cho những công ty đang lâm vào tình trạng khủng hoảng có cơ hội chỉnh đốn lại tổ chức và tài chánh. Chương 11 cũng có thể dùng cho cá nhân, tuy nhiên vì lý do thủ tục tốn kém và tốn thì giờ nên thường chỉ áp dụng cho những người có tổng số nợ ra ngoài giới hạn nói trên của chương 13 hoặc cho những người đang làm chủ nhiều bất động sản như có nhiều nhà đất chẳng hạn.

Chương 12 cũng giống như chương 13 nhưng đặc biệt dành cho chủ nhân các trại chăn nuôi hay trồng tỉa. Muốn khai phá sản theo chương 12 đương sự phải có ít nhất 80% số nợ xuất xứ từ hoạt động canh tác hay chăn nuôi. Chương 12 có giới hạn khai nợ cao hơn, thích hợp với những nợ lớn do kinh doanh nông trại. Chương này chỉ giúp ích một số ít người hội đủ điều kiện nên không mấy đại chúng. Theo thống kê mỗi năm chỉ có vài trăm vụ khai theo chương 12 trong lúc có hàng ngàn vụ khai theo chương 13.

Luật Khánh Tận áp dụng đồng đều cho mọi người dân sống trên đất Mỹ nên dĩ nhiên ai cũng có quyền xin phá sản khi bị nợ nần dồn ép vào chân tường không lối thoát. Như đã trình bày ở trên, chương 7 là một dụng cụ dùng để khai phá sản có mãnh lực rất mạnh để xóa nợ. Tuy nhiên không phải bất cứ ai cũng có thể xin khai theo chương 7 để rũ sạch nợ được.

Trước hết là những người đủ sức trả nợ dần theo chương 13, có nghĩa là vẫn còn nguồn lợi tức nhưng không đủ để trả hết như bình thường. Theo Luật Khánh Tận cũ ai muốn khai theo chương nào thì khai ngoại trừ trường hợp bị vị chánh án bác đơn vì xét thấy đương sự có đủ “lợi tức sử dụng được” để trả nợ theo lịch trình ấn định theo chương 13. Thực ra không có điều luật cứng rắn nào để vị chánh án căn cứ vào đó mà bác đơn mà hoàn toàn do nhận định xét theo yếu tố trong vụ khai và thái độ của chánh án.

Bây giờ Luật Khánh Tận mới đã có hiệu lực, luật pháp nay đặt ra tiêu chuẩn để tòa quyết định cho phép những người nộp đơn xin khai khánh tận ai sẽ được đặc ân theo chương 7 mà xóa nợ, và ai phải bắt buộc theo chương 13 mà trả nợ dần. Những cựu chiến binh bị tàn phế và người bị khủng hoảng nợ nần do buôn bán thua lỗ thì sẽ được xét xử nhanh chóng hơn, còn những trường hợp khác đều phải theo điều kiện qui định như đã trình bày trong các bài trước, xin tóm lược sau đây:

Theo điều luật mới, bước đầu tiên để xác định người khai hội đủ điều kiện theo chương 7 là làm trắc nghiệm so sánh “lợi tức hàng tháng” với lợi tức tiêu chuẩn tùy theo nhân số trong gia đình tại tiểu bang cư trú. Tuy nhiên lợi tức hàng tháng đề cập ở đây không phải là lợi tức người khai kiếm được vào lúc nộp đơn khai phá sản mà là lợi tức trung bình sáu tháng trước ngày khai. Lợi tức này cũng không kể đến tiền trợ cấp an sinh xã hội hay tiền trợ cấp tàn phế nếu có. Đối với nhiều người nhất là với những ai mới bị thất nghiệp mất công ăn việc làm thì mức “lợi tức hàng tháng” này sẽ cao hơn lợi tức thực sự của người ấy lúc khai phá sản.

Sau cuộc trắc nghiệm thứ nhất nói trên, nếu lợi tức ít hơn lợi tức tiêu chuẩn thì người ấy có quyền khai phá sản theo chương 7. Nếu lợi tức hàng tháng tính ra nhiều hơn lợi tức tiêu chuẩn thì luật mới bắt phải qua cuộc thi thứ hai gọi là “trắc nghiệm trung bình” (the mean test). Mục đích của “trắc nghiệm trung bình” là để tính xem người ấy có đủ “lợi tức sử dụng được” sau khi đã trừ đi vài chi phí đã chuẩn y và các khoản nợ bắt buộc khác. Phần tiền còn lại sẽ dùng để trả ít nhất một phần nào những món nợ không thế chấp trong vòng năm (5) năm.

Chi tiết về trắc nghiệm này đã được trình bày trong bài trước.

Ngoài ra còn điều luật không cho ai khai trương 7 nếu đã từng khai phá sản trong vòng tám năm trước hoặc khai trương 13 trong vòng sáu năm. Trường hợp sau đây cũng không được khai theo chương 7 nếu trong vòng 180 ngày trước đã từng bị tòa án bác đơn vì vi phạm án lệnh, hoặc có án tích bị tòa kết tội lừa đảo hay lạm dụng Luật Khánh Tận.

Tòa án còn có thể bác bỏ vụ khai nếu xét thấy có nghi ngờ man khai hay gian lận giấu giếm tài sản và có âm mưu lừa đảo chủ nợ. Những hành vi sau đây được kể là mờ ám và rất dễ bị tòa án nghi ngờ nhất là người khai từng vi phạm trong quá khứ:

- Chuyển dịch tài sản đem gửi bạn bè hay thân nhân cất giấu giùm để tránh tai mắt của chủ nợ và tòa án.

- Mượn nợ để mua những món đồ xa xỉ đắt tiền khi biết không có khả năng trả nổi và còn đang ngập nợ.

- Giấu giếm người hôn phối về tiền bạc hay của cải trong thời gian đang tiến hành thủ tục ly dị.

- Khai gian dối về lợi tức hay nợ nần trong những đơn xin vay tiền hay xin cấp thẻ tín dụng.

Thêm vào đó trong hồ sơ khai phá sản, đương đơn còn phải ký tên với lời tuyên thệ “trừng phạt vì nói dối” (penalty of perjury) xác nhận mọi lời khai trong đơn đều đúng theo sự thật. Nếu đương sự cố tình không khai báo thật thà về tài sản hiện hữu, che dấu những chi tiết liên quan đến tình trạng tài chánh, hoặc dùng số an sinh xã hội giả mạo để dấu tung tích thật của mình, khi tòa án khám phá ra những điều dối trá trên thì đương nhiên vụ khai bị bác bỏ đồng thời đương sự còn bị truy tố hình sự vì tội man trá, lừa bịp.

Kỳ tới chúng tôi trình bày chi tiết và khác biệt trong thủ tục khai phá sản theo chương 7 và chương 13. Cũng như thường lệ người viết xin xác nhận nội dung của những loạt bài tìm hiểu luật pháp này chỉ có mục đích sử dụng với tính cách thông tin (information) giúp quí độc giả một vài kiến thức tổng quát về luật pháp Hoa Kỳ mà thôi và không thể coi như liên hệ của luật sư với thân chủ (attorney-client relationship). Do đó nếu có vấn đề liên quan đến luật, quí độc giả vẫn cần thảo luận với một luật sư chuyên môn về trường hợp của quí vị.

Nếu cần tham khảo riêng xin liên lạc với Luật Sư LyLy Nguyễn tại văn phòng ở địa chỉ 10221 Slater Avenue, Suite 216, Fountain Valley, CA 92708. Điện thoại: (714) 531-7080. Website:lylylaw.com.

Nguồn: nguoivietonline.com